Theo nghiên cứu được công bố trên JAMA Dermatology, kết quả mang thai ở phụ nữ bị bệnh vẩy nến từ trung bình đến nặng điều trị với các thuốc sinh học tương tự như với các loại thuốc khác.
Dữ liệu được lấy từ nghiên cứu PSOLAR ( Đánh giá và đăng ký theo chiều dọc bệnh vảy nến), đánh giá sự an toàn và kết quả lâu dài của bệnh nhân mắc bệnh vẩy nến sử dụng thuốc sinh học và/hoặc các phương pháp điều trị toàn thân thông thường.
2224 phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ (tuổi trung bình 27,8 tuổi) trong tổng số 12,929 bệnh nhân theo dõi trong nhiều năm (tuổi trung bình 7,2 tuổi) được đưa vào phân tích của PSOLAR.
Các phép đo chính bao gồm việc điều trị với các thuốc sinh học bất kỳ lúc nào hoặc 1 năm hoặc ít hơn trước khi sinh hoặc 6 tháng hoặc ít hơn trước khi sẩy thai tự nhiên.
Các kết quả tự báo cáo liên quan đến thai kỳ đã được đánh giá bao gồm sinh thường, thai chết lưu, sẩy thai tự nhiên và nạo phá thai.
Trong số 298 trường hợp mang thai, khoảng 81,9% là sinh thường, 13,8% sẩy thai tự nhiên và 4,4% nạo phá thai. Khoảng 90,9% trong số 243 trẻ là sinh đủ tháng và 9,1% trẻ sinh non. Có 231 trẻ sơ sinh khỏe mạnh, 10 trẻ sơ sinh có bệnh lý, 2 trẻ dị tật bẩm sinh và 1 trẻ chết lưu.
Tổng số 252 trường hợp mang thai có điều trị với thuốc sinh học trước hoặc trong khi mang thai, bao gồm 56,4% thai kỳ tiếp xúc với các liệu pháp này trong khi mang thai. Không có sự khác biệt về tỷ lệ giữa thai điều trị và không điều trị với thuốc sinh học về kết quả sinh, bao gồm trẻ sơ sinh khỏe mạnh, trẻ sơ sinh có bệnh lý, trẻ dị tật bẩm sinh và thai chết lưu.
Một hạn chế trong nghiên cứu này là chỉ đưa thông tin cơ bản vào bệnh sử , có thể đã hạn chế việc thu thập các chi tiết liên quan đến khả năng sinh sản và kết quả mang thai.
Bất chấp những hạn chế này, các nhà nghiên cứu vẫn cho rằng “kết quả mang thai ở phụ nữ mắc bệnh vẩy nến từ trung bình đến nặng ở PSOLAR vẫn phù hợp với dữ liệu được báo cáo trước đây và dân số chung”.