Theo dữ liệu được đăng trên The Lancet Rheumatology, dùng Guselkumab mỗi 4 hay 8 tuần có thể cải thiện triệu chứng trục ở những bệnh nhân vảy nến khớp có viêm khớp cùng chậu đến tuần thứ 52.
Bác sĩ Phillip J. Mease của Trung tâm Y khoa Thụy Điển và Đại học Washington ở Seatle cho biết “Vì viêm khớp trục là một triệu chứng lâm sàng quan trọng ở những bệnh nhân vảy nến khớp nên việc xác định thuốc Guselkumab có hiệu quả trong điều trị triệu chứng viêm khớp trục không là điều rất cần thiết. Đây cũng là một câu hỏi về miễn dịch – sinh học thú vị. Nghiên cứu nhỏ trước đây dùng thuốc ức chế p19 IL-23, Risankizumab, điều trị viêm cột sống dính khớp không cho thấy hiệu quả của thuốc này.”
Ông nói thêm “Câu hỏi miễn dịch – sinh học được đặt ra là cơ chế nào mà IL-23 có thể cải thiện triệu cưhsng trục ở bệnh nhân vảy nến khớp. Viêm khớp vảy nến khớp trục có khác viêm cột sống dính khớp về mặt sinh học – miễn dịch nhiều đến mức thuốc này có thể hiệu quả trong điều trị viêm khớp vảy nến khớp trục mặc dù thất bại trong điều trị viêm cột sống dính khớp. Điều này đã thôi thúc việc thực hiện một nghiên cứu chuyên biệt về Guselkumab trong điều trị viêm khớp vảy nến khớp trục trong tương lai gần.”
Để phân tích hiệu quả của Guselkumab (Tremfya, Jassen) trong việc cải thiện các triệu chứng khớp trục ở những bệnh nhân vảy nến khớp có viêm khớp cùng chậu (đã được xác định bằng hình ảnh), Mease và cộng sự thực hiện phân tích hậu định trên dữ liệu từ nghiên cứu DISCOVER-1 và DISCOVER-2.
Hai thử nghiệm này gồm 1.120 người vảy nến khớp đang trong giai đoạn hoạt động được ngẫu nhiên chia thành 2 nhóm: 1 nhóm dùng 100mg Guselkumab mỗi 4 tuần hay 8 tuần và 1 nhóm dùng giả dược.
Mease và cộng sự phân tích cả những bệnh nhân họ chẩn đoán có viêm khớp trục dựa trên hình ảnh xquang hay các hình ảnh khác có dấu hiệu của viêm khớp cùng chậu. Chẩn đoán này được xác định lại bởi các nghiên cứu viên chính. Trong nhóm 312 dùng Guselkumab, có 128 người dùng thuốc mỗi 4 tuần và 127 người dùng thuốc mỗi 8 tuần. Có 126 người dùng giả dược. 30% người tham gia nghiên cứu có HLA-B*27 dương.
Đánh giá hiệu quả dựa trên điểm BASDAI, BASDAI50 và BASDAI hiệu chỉnh (loại trừ đau khớp ngoại vi – đau cột sống), điểm ASDAS-CRP, đáp ứng ASDAS khi bệnh không trong giai đoạn hoạt động, cải thiện chính và cải thiện quan trọng trên lâm sàng.
Theo các nhà nghiên cứu, ở tuần thứ 24, trung bình bình phương nhỏ nhất BASDAI giảm là 2,7 ở cả 2 nhóm dùng Guselkumab. Con số này là 1,3 ở nhóm dùng giả dược. Chỉ số BASDAI hiệu chỉnh và tình trạng đau cột sống cũng có kết quả tương tự. Trong khi đó, trung bình bình phương nhỏ nhất thay đổi của điểm ASDAS tại tuần thứ 24 là 1, 4 ở cả 2 nhóm dùng Guselkumab và 0,7 ở nhóm dùng giả dược.
Hơn nữa, vào tuần thứ 24, 38% bệnh nhân điều trị bằng Guselkumab mỗi 4 tuần và 40% bệnh nhân đièu trị bằng thuốc này mỗi 8 tuần đạt BASDAI50 trong khi tỉ lệ này chỉ đạt 19% ở nhóm giả dược. Các nhà nghiên cứu cũng cho biết rằng tỉ lệ đạt đáp ứng ASDAS của nhóm dùng Guselkumab cao hơn nhóm giả dược. Hiệu quả điều trị không liên quan đến việc HLA-B*27 dương hay âm.
Mease phát biểu rằng “Khi chúng tôi thực hiện nghiên cứu trên những bệnh nhân được chẩn đoán là viêm khớp vảy nến khớp trục và có viêm khớp cùng chậu được xác định bằng hình ảnh Xquang hay MRI 2 nghiên cứu DISCOVER-1 và -2, chúng tôi thấy được lợi ích khi dùng phương tiện truyền thống để xác định tình trạng của khớp trục trong viêm khớp vảy nến. Điều này quan trọng vì trong khoảng 40% bệnh nhân tham gia nghiên cứu, cột sống có thể có liên quan đến đau và viêm miễn dịch. Điều này hứa hẹn rằng triệu chứng này có thể điều trị được.”
Ông nói thêm “Sẽ rất hữu ích nếu có thuốc điều trị hiệu quả và an toàn cho từng vùng ảnh hưởng của bệnh viêm khớp vảy nến. Việc biết được các triệu chứng của khớp trục cũng có thể cải thiện được như triệu chứng của khớp ngoại biên rất quan trọng”