Theo kết quả của một nghiên cứu hồi cứu, hầu hết bệnh nhân được chẩn đoán dị ứng đậu phộng khi còn nhỏ sẽ vẫn tiếp tục ở tuổi trưởng thành, trong khi chỉ có khoảng 10% hết hoàn toàn.
Nghiên cứu chỉ ra rằng tiền sử phản ứng dị ứng có liên quan đến sự tăng cao các marker dị ứng đậu phộng. Tuy nhiên, tiền sử mắc bệnh chàm hoặc giới tính nam cũng có liên quan chặt chẽ, gợi ý cho việc ngăn ngừa và điều trị sớm bệnh chàm ngay từ khi còn nhỏ có thể giúp kiểm soát lâu dài dị ứng đậu phộng.
Nghiên cứu được tiến hành khi có quá ít dữ liệu theo dõi lâu dài trên những bệnh nhân bị dị ứng đậu phộng. Không rõ có bao nhiêu người có các phản ứng dị ứng trong một thời gian dài, như từ thời thơ ấu đến tuổi trưởng thành, và bao nhiêu người có phản ứng nghiêm trọng. Ngoài ra, các yếu tố ảnh hưởng đến việc hết dị ứng đậu phộng cũng cần được nghiên cứu thêm.
Nghiên cứu tại bệnh viện Nhi đồng Boston được thực hiện trên 524 bệnh nhân dị ứng đậu phộng (48,9% là phụ nữ) đã từng ít nhất một lần đến khám ở tuổi trưởng thành, theo chương trình Dị ứng từ 1998 đến 2020.
Trong số đó, 86% được chẩn đoán là bị dị ứng đậu phộng thời thơ ấu. 61,1% có tiền sử dị ứng đậu phộng và 26,3% có tiền sử sốc phản vệ. Các phản ứng nặng nhất mà bệnh nhân gặp phải chủ yếu là độ 1 (29%) hoặc độ 2 (23,3%).
Trong số tất cả các bệnh nhân, 10,9% đã trải qua bài test thức ăn (food challenge test), trong đó 84,2% đã vượt qua. Phần lớn bệnh nhân không trải qua bài test thức ăn (58,2%) có xét nghiệm IgE tăng cao và / hoặc test lẩy da dương mạnh trong vòng 4 năm kể từ lần khám bệnh dị ứng gần đây nhất.
Tuy nhiên, 31% những người không trải qua test thức ăn không có dấu hiệu tăng cao marker dị ứng đậu phộng hoặc tiền sử phản ứng dị ứng đậu phộng cấp 2 trở lên.
Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng giới tính nam (P = 0,001), tiền sử phản ứng dị ứng đậu phộng (P = 0,004) và bệnh chàm (P < 001) có liên quan đáng kể đến sự tăng cao của IgE đặc hiệu hoặc phản ứng dương tính mạnh khi test lẩy da ở bệnh nhân lớn hơn 18 tuổi.
11,3% bệnh nhân khỏi hoàn toàn dị ứng đậu phộng. Khả năng hết dị ứng đậu phộng xuất hiện nhiều hơn ở những bệnh nhân không bị hen suyễn (OR = 2,1; KTC 95%, 1,1-3,9) và những người không có tiền sử phản ứng dị ứng đậu phộng (OR = 3,1; KTC 95%, 1,5-6,3) nhưng ít xảy ra hơn ở nam giới (OR = 0,5; KTC 95%, 0,3-0,9).
Tỷ lệ chính xác của việc hết dị ứng đậu phộng theo thời gian là không rõ ràng.