Thêm một khuyến cáo về quản lý cân nặng ở các trẻ em tuổi vị thành niên. Theo kết quả từ một nghiên cứu đăng trên tạp chí Pediatric Dermatology, tỷ lệ bé gái vị thành niên mắc mụn trứng cá cao hơn bé trai và trẻ bị mụn có nhiều khả năng bị béo phì.
Các nhà nghiên cứu đã đánh giá tỷ lệ mụn trứng cá ở trẻ từ 7 đến 12 tuổi và mối quan hệ giữa chỉ số khối cơ thể (BMI) và mụn trứng cá, bằng cách sử dụng dữ liệu từ dự án dịch tễ học Rochester từ ngày 2 tháng 1 năm 2010 đến ngày 31 tháng 12 năm 2018.
Tương ứng với mỗi bệnh nhân bị mụn trứng cá mà không có rối loạn nội tiết liên quan, sẽ chọn ngẫu nhiên 2 trẻ ở nhóm chứng có độ tuổi và giới tính (±1 tuổi) phù hợp, cư trú tại quận Olmsted. Tổng cộng có 643 trường hợp (482 nữ; 74,2% da trắng) được đưa vào nghiên cứu.
Tỷ lệ mới mắc hàng năm được hiệu chỉnh theo tuổi và giới tính đối với trẻ em từ 7 đến 12 tuổi là 58,0 (CI95%, 53,5-62,5) trên 10.000 người-năm. Bé gái có tỷ lệ mắc bệnh hàng năm cao hơn đáng kể so với bé trai (89,2 so với 28,2; p <0,001). Tỷ lệ mắc hàng năm theo tuổi tăng đáng kể lần lượt là 4,3; 24,4 và 144,3 ở trẻ từ 7 đến 8, 9 đến 10 và 11 đến 12 tuổi.
Thời gian theo dõi trung bình sau chẩn đoán mụn trứng cá là 4,9 năm, với độ tuổi trung bình ở lần theo dõi cuối cùng là 16,8 năm.
Trước khi so sánh chỉ số BMI, 27 bệnh nhân mụn trứng cá có liên quan đến rối loạn nội tiết từ trước đã được loại trừ và có 581 bệnh nhân (73,5% là nữ) được thu thập chỉ số BMI trong vòng 8 tháng kể từ khi chẩn đoán bệnh.
Tuổi trung bình khi ghi nhận BMI là 11,9 (1,0) tuổi với nhóm 581 trẻ bệnh và 11,7 (1,2) tuổi với 1162 trẻ ở nhóm chứng. Những đứa trẻ bị mụn có tỷ lệ phần trăm BMI trung bình theo tuổi và giới tính cao hơn đáng kể so với nhóm chứng (IQR 75,0 [51,2-91,2] so với 65,0 [36,4-87,4]; p <0,001). Ngoài ra, 16,7% trẻ em bị mụn có BMI theo tuổi từ bách phân vị 95 trở lên, và con số này ở nhóm chứng là 12,2% (p = 0,01).
Việc sử dụng thuốc đường toàn thân tăng lên ở các nhóm có chỉ số BMI cao hơn, với tỷ lệ sử dụng 5,4% ở trẻ thiếu cân hoặc cân nặng bình thường, 8,1% ở những trẻ thừa cân và 10,3% ở những trẻ béo phì. Mặc dù tỷ lệ sử dụng thuốc đường toàn thân có liên quan đáng kể với chỉ số BMI cao hơn, không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ giữa các nhóm BMI (p = 0,18).
Những hạn chế của nghiên cứu bao gồm thiết kế hồi cứu và nguy cơ bỏ sót ca mụn trứng cá. Ngoài ra, không có dữ liệu về tuổi bắt đầu có kinh nguyệt, một số bệnh nhân đến gặp bác sĩ không vì mụn trứng cá nên không được đưa vào danh sách và cư dân ở quận Olmsted hầu hết là người da trắng không phải gốc Tây Ban Nha.