Một phân tích hậu kỳ các dữ liệu lâm sàng cho thấy những bệnh nhân vảy nến trẻ tuổi, ít béo phì, thể nhẹ – trung bình có khả năng đáp ứng rất tốt với thuốc sinh học Guselkumab. Những bệnh nhân này có nhiều khả năng sạch thương tổn hoàn toàn sau khi điều trị bằng Guselkumab, một kháng thể đơn dòng tác động lên interleukin 23.
Đây là một phân tích hậu kỳ các dữ liệu tổng hợp từ các nghiên cứu VOYAGE-1 và VOYAGE-2. Trong số 664 người tham gia nghiên cứu, 271 người đã đạt mức siêu đáp ứng, được xác định bởi sự sạch thương tổn thông qua chỉ số đánh giá mức độ nghiêm trọng của vảy nến (PASI) ở tuần 20 và 28.
Nhóm tác giả đến tử Trung tâm Y khoa Đại học Hamburg-Eppendorf ở Đức cho biết: “Mặc dù hầu hết bệnh nhân mắc bệnh vảy nến từ trung bình đến nặng được điều trị bằng thuốc sinh học sẽ cần điều trị liên tục trong thời gian dài do tính chất mạn tính của bệnh.
Tuy nhiên, dữ liệu từ phân tích hậu định này gợi ý rằng những bệnh nhân được điều trị với Guselkumab và có siêu đáp ứng có những đặc điểm về dịch tễ và bệnh học khác biệt”.
Những kết quả này cho phép các bác sĩ lâm sàng dự đoán được bệnh nhân nào có thể đạt được siêu đáp ứng ngay tại thời điểm khởi đầu điều trị.
Điều này có thể hữu ích trong việc lựa chọn thuốc, quản lý kỳ vọng của bệnh nhân về đáp ứng điều trị và cải thiện giao tiếp giữa bệnh nhân và bác sĩ. Tuy nhiên, mức độ liên quan với lâm sàng của những phát hiện này cần được nghiên cứu thêm.
Nghiên cứu sử dụng phân tích hồi quy logistic từng bước để đánh giá yếu tố nào có khả năng dự đoán siêu phản ứng. Những bệnh nhân đạt được siêu phản ứng so với những bệnh nhân không có siêu phản ứng là:
- Nhẹ hơn, với trọng lượng cơ thể trung bình là 187 pounds so với 198 pounds
- Ít béo phì hơn, với chỉ số BMI từ 30 trở lên ở 2 nhóm lần lượt là 35,4% so với 45,3%
- Có điểm IGA ban đầu thấp hơn 4 ở 2 nhóm lần lượt là 16,2% so với 26,5%
- Ít có khả năng bị vảy nến ở móng tay hơn, 49,1% so với 64,9%
- Ít sử dụng các phương pháp điều trị toàn thân không phải thuốc sinh học trước đó, 60,9% so với 69%
- Ít có khả năng mắc hội chứng chuyển hóa tại thời điểm khởi đầu, 19,9% so với 25,4%
Các yếu tố giống nhau giữa hai nhóm bao gồm đái tháo đường và tăng huyết áp, hút thuốc lá và chỉ số huyết áp ban đầu, mức đường huyết lúc đói và nồng độ lipid.
Từ đó, các tác giả rút ra kết luận: “Dựa trên mô hình hồi quy logistic từng bước, tuổi bệnh nhân khi tham gia nghiên cứu, trọng lượng cơ thể ban đầu (≤90 kg so với > 90 kg), điểm PASI và điểm IGA ban đầu là những yếu tố dự báo quan trọng về tình trạng siêu phản ứng.”
Những bệnh nhân đạt được siêu phản ứng có đáp ứng lâm sàng sớm hơn, với 5,5% bệnh nhân có độ nặng sang thương giảm 75% sớm nhất là vào tuần thứ 2 so với 1,8% ở những người không có siêu phản ứng.
Độ nặng của sang thương giảm 90% sớm nhất vào tuần 4 ở 10% những người đạt được phản ứng siêu cấp so với 3,6% ở nhóm còn lại và tỉ lệ đạt được sạch sang thương hoàn toàn sớm nhất vào tuần 8 lần lượt là 22,5% và 3,3% ở 2 nhóm.
Những hạn chế của nghiên cứu bao gồm đây là phân tích hậu định với số lượng bệnh nhân tham gia nghiên cứu ít, mức độ siêu phản ứng chỉ được đánh giá trong 28 tuần và mức độ này không được phân tích ở nhóm dùng Adalimumab.
Guselkumab là chất ức chế IL-23 đầu tiên được chấp thuận cho người lớn bị bệnh vảy nến. Một nghiên cứu gần đây cho thấy Guselkumab có liên quan đến việc tăng thời gian tuân thủ và tỷ lệ thuyên giảm cao hơn so với các liệu pháp sinh học khác, bao gồm Adalimumab, Secukinumab và Ixekizumab.
Từ đó, các tác giả kết luận: “Các thuốc sinh học mới được phê duyệt trong điều trị bệnh vảy nến giúp cho việc đạt được sạch thương tổn trở thành một mục tiêu điều trị thực tế, khả thi. Guselkumab là một chất ức chế IL-23 p19 có cơ chế hoạt động mới và duy nhất, hiệu quả và an toàn trong điều trị bệnh nhân bị vảy nến thể mảng từ trung bình đến nặng, và có một tỷ lệ đáng kể bệnh nhân đạt được sạch hoàn toàn sang thương.”