Theo số liệu được trình bày tại EULAR 2021 Virtual Congress, nhóm bệnh nhân vảy nến khớp đáp ứng không tốt với chất ức chế TNF dùng Guselkumab 100mg mỗi 8 tuần đạt đáp ứng ACR20 cao hơn rõ rệt so với nhóm dùng giả dược.
TS.BS Laure Gossec thuộc đại học Sorbonne, Paris (Pháp), phát biểu rằng: “Nghiên cứu COSMO cung cấp các thông tin quan trọng về các phương pháp điều trị vảy nến khớp mà trước giờ chúng ta chưa có dữ liệu. Nghiên cứu gồm những bệnh nhân mắc bệnh vảy nến khớp và đã từng dùng thuốc ức chế TNF.
Những bệnh nhân này thường khó điều trị. Kết quả nghiên cứu cung cấp cho ta những dữ liệu mới đáng mừng về tính an toàn và hiệu quả Guselkumab khi dùng điều trị cho bệnh nhân vảy nến khớp không đáp ứng với một hay nhiều phương pháp điều trị khác.”
Gossec và cộng sự tiến hành nghiên cứu COSMOS ngẫu nhiên, mù đôi, có nhóm chứng, pha 3b để phân tích tính hiệu quả và an toàn của Guselkumab (Tremfya, Jassen) trên bệnh nhân vảy nến khớp không đáp ứng với thuốc ức chế TNF.
Các nhà nghiên cứu ngẫu nhiên chia 285 bệnh nhân có sưng đau ít nhất 3 khớp và đã thất bại khi điều trị với 1 hay 2 thuốc ức chế TNF trước đây vào 2 nhóm (1 nhóm dùng 100mg thuốc Guselkumab và 1 nhóm dùng giả dược) theo tỉ lệ 2:1. Các bệnh nhân sẽ được điều trị vào tuần 0, tuần 4 và mỗi 8 tuần cho đến tuần thứ 44.
Ở tuần thứ 16, các bệnh nhân có chỉ số cải thiện triệu chứng đau và sưng khớp dưới 5% (điều kiện kết thúc sớm) được chấp nhận chuyển từ nhóm dùng giả dược sang nhóm dùng Guselumab. Toàn bộ bệnh nhân nhóm dùng giả dược chuyển sang dùng Guselkumab vào tuần thứ 24.
HIệu quả điều trị nghiên cứu dùng để đánh giá chính là đáp ứng ACR20 tại tuần thứ 24. Tất cả những người không ghi nhận được dữ liệu về ACR20 hay thất bại trong điều trị (bao gồm cả những bệnh nhân cải thiện triệu chứng đau và sưng khớp dưới 5% tại tuần điều trị 16) đều được xếp vào nhóm không có dữ liệu (non-responders).
Các nhà nghiên cứu cũng phân tích các phân nhóm nhỏ được phân chia dựa vào thông tin dịch tễ, tính chất bệnh và thuốc đang sử dụng để đánh giá tính nhất quán của hiệu quả điều trị chính mà nghiên cứu quan tâm. Đánh giá độ nhạy bao gồm phân tích theo từng phác đồ – PP (giúp loại bỏ những người không điều trị đúng theo phác đồ) và phân tích cả những người được cho kết thúc nghiên cứu sớm sai (EE-correction). Nghiên cứu viên sẽ tổng hợp tác dụng phụ dựa vào phương pháp điều trị.
Theo các nhà nghiên cứu, ở tuần thứ 24, 44,4% bệnh nhân điều trị bằng Guselkumab đạt ACR20, con số này ở nhóm giả dược là 19,8% (P<0,001). Hơn nữa, nhóm dùng Guselkumab cũng đạt hiệu quả điều trị phụ cao hơn nhóm giả dược. Sau 1 năm, đáp ứng điều trị tăng lên, có 57,7% bệnh nhân dùng Guselkumab đạt ACR 20 và 53,4% bệnh nhân nhóm này đạt PASI 100.
Gossec phát biểu “Tại tuần thứ 24, dữ liệu COSMOS cho thấy tỉ lệ bệnh nhân có cải thiện về triệu chứng khớp và không còn sang thương da ở nhóm dùng Guselkumab cao hơn rất nhiều so với nhóm dùng giả dược. Nhóm dùng Guselkumab còn có tỉ lệ bệnh nhân đạt ACR50, có cải thiện chức năng vận động và chất lượng cuộc sống vượt trội so với nhóm dùng giả dược.”
Phân tích các phân nhóm nhỏ cho thấy hiệu quả điều trị ở từng nhóm là như nhau ngay cả ở những bệnh nhân dừng điều trị với thuốc ức chế TNF do không hiệu quả (84% người nhóm Guselkumab và 81% người nhóm giả dược) hay do không an toàn (16% người nhóm Guselkumab và 19% người nhóm giả dược).
Có 12 bệnh nhân thuộc nhóm Guselkumab và 8 bệnh nhân thuộc nhóm giả dược bị kết thúc điều trị sớm sai. Theo phân tích từng phác đồ, kết quả điều trị thành công của nhóm dùng Guselkumab và nhóm giả dược lần lượt là 48,8% và 23,8% . Và theo phân tích thêm những người bị kết thúc điều trị sớm sai, kết quả này là 48,1% và 19,8%. Các kết quả trên tương tự với phân tích chính. Tác dụng phụ ở nhóm Guselkumab và nhóm giả dược tương tự nhau.
Gossec nói thêm “Kết quả nghiên cứu cung cấp cho ta những dữ liệu mới đáng mừng về tính an toàn và hiệu quả Guselkumab khi dùng điều trị cho bệnh nhân vảy nến khớp không đáp ứng với một hay nhiều liệu pháp khác.