Theo kết quả của một nghiên cứu vừa được báo cáo, độc tính da liên quan đến liệu pháp ức chế điểm kiểm soát ung thư rất khác nhau, tùy thuộc vào bệnh lý ác tính và liệu pháp được sử dụng.
Tiến sỹ, bác sĩ Vasiliki A. Nikolaou và các đồng nghiệp từ khoa Da liễu, Bệnh viện Da liễu Andreas Syggros, thuộc trường Y Khoa quốc gia Athens tại Hy Lạp đã viết: “Các phản ứng da liên quan miễn dịch là những độc tính thường gặp nhất khi sử dụng liệu pháp ức chế điểm kiểm soát miễn dịch”.
Tiến sỹ Nikolaou và các đồng nghiệp đã tiến hành một nghiên cứu đoàn hệ quốc tế, hồi cứu, đa trung tâm nhằm đánh giá mối liên quan lâm sàng của các độc tính da khởi phát bởi các liệu pháp ức chế điểm kiểm soát miễn dịch khác nhau.
Nghiên cứu gồm có 762 bệnh nhân ung thư với 993 độc tính da được ghi nhận. Trong số 40 loại độc tính da khác nhau được báo cáo, vảy nến ghi nhận ở 23% bệnh nhân, ngứa xuất hiện ở 22,4% bệnh nhân, phát ban dạng dát và phản ứng dạng chàm lần lượt gặp ở 21,1% và 19,7% bệnh nhân. Phân tích đa biến ghi nhận những bệnh nhân có dát phát ban (OR = 3,1; 95% CI, 1,37-6,93), bạch biến (OR = 44; 95% CI, 9,02-222) hoặc đa nhiễm độc (OR = 3,99; 95% CI, 1,76-9,01) hầu hết thường được điều trị với liệu pháp ức chế điểm kiểm soát cho ung thư tế bào sắc tố hơn là ung thư phổi không tế bào nhỏ.
Thêm vào đó, bệnh nhân phát ban da có nhiều khả năng được điều trị với liệu pháp chống tử vong 1 hơn là chống CTLA4 (OR = 0,11; 95% CI, 0,01-0,76). Xu hướng tương tự cũng được ghi nhận đối với bệnh bạch biến (OR = 0,07; KTC 95%, 0,006-0,78). Bệnh nhân được điều trị kết hợp giữa ức chế điểm kiểm soát và hóa trị liệu ít có khả năng phát triển một vài biểu hiện da một cách đáng kể so với bệnh nhân chỉ được điều trị bằng liệu pháp ức chế điểm kiểm soát.
Ví dụ, bệnh nhân được điều trị bằng phương thức kết hợp ít có khả năng phát triển bệnh vảy nến (OR = 0,08; 95% CI, 0,02-0,31), phản ứng dạng lichen (OR = 0,15; 95% CI, 0,03-0,77) và phản ứng chàm (OR = 0,24 ; 95% CI, 0,07-0,78), tất cả đều so với phát ban ngứa.
Bệnh nhân được điều trị kết hợp giữa ức chế điểm kiểm soát và hóa trị liệu ít có khả năng phát triển một vài biểu hiện da một cách đáng kể so với bệnh nhân chỉ điều trị bằng liệu pháp ức chế điểm kiểm soát. Ví dụ, bệnh nhân được điều trị bằng sự kết hợp ít có khả năng phát triển bệnh vẩy nến (OR = 0,08; 95% CI, 0,02-0,31), phản ứng lichenoid (OR = 0,15; 95% CI, 0,03-0,77) và phản ứng chàm (OR = 0,24 ; 95% CI, 0,07-0,78), tất cả đều được so với phát ban ngứa.
Từ những kết quả trên, các nhà nghiên cứu kết luận: “ Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy độc tính trên da không có chung một khuôn mẫu nào và có liên quan đến một số yếu tố, bao gồm tác nhân cụ thể được sử dụng và bệnh ác tính tiềm ẩn được điều trị”. Nhóm nghiên cứu gợi ý rằng cách tối ưu để giảm các phản ứng nghiêm trọng trên da là cá thể hóa các kế hoạch theo dõi. Đồng thời, các nhà nghiên cứu cũng kết luận: “Nhận thức lâm sàng và tư vấn chuyên khoa da liễu nên được khuyến khích và ủng hộ”.