Hiệu quả và độ an toàn của các thuốc sinh học được sử dụng phổ biến trong bệnh vảy nến đã được nêu trong dữ liệu nghiên cứu công bố trên tạp chí JAMA Dermatology.
Trong các phân tích về tỷ lệ sống sót, guselkumab có tỷ lệ tồn tại thuốc cao nhất cho điều trị lâu dài và tính an toàn so với các thuốc sinh học khác. Các yếu tố thay đổi hiệu ứng bao gồm viêm khớp vảy nến, có tổn thương móng kèm theo, đã sử dụng thuốc sinh học trước đó và chủng tộc.
Trích xuất dữ liệu từ cơ quan đăng kí sinh học và điều hoà miễn dịch của Hiệp hội Bác sĩ Da liễu Anh (BADBIR). Bệnh nhân sau khi đăng ký sẽ đóng góp dữ liệu về phác đồ điều trị của họ 6 tháng một lần cho 3 năm đầu tiên và sau đó là hàng năm. Dữ liệu từ khi bắt đầu đăng kí đến tháng 8 năm 2021 đã được sử dụng trong nghiên cứu này.
Mô hình Kaplan-Meiew được sử dụng để ước tính thời gian tồn tại của thuốc đối với từng tác nhân sinh học sau: adalimumab, ustekinumab, secukinumab, ixekizumab. Thời gian tồn tại của thuốc được xác định là thời gian từ khi bắt đầu điều trị đến khi ngưng điều trị.
Có 2 mô hình về tỷ lệ sống sót của thuốc phù hợp với dữ liệu dựa trên 2 kết quả riêng biệt: ngừng thuốc do mất tác dụng của thuốc và không hiệu quả do tác dụng phụ.
Dữ liệu từ tổng số 16122 liệu trình điều trị bao gồm: 6607 (41,0%) bắt đầu adalimumab; 5405 (33,5%) ustekinumab; 2677 (16,6%) secukinumab; 730 (4,5%) guselkumab; và 703 (4,4%) ixekizumab. Trung vị tuổi của bệnh nhân khi khởi đầu điều trị là 46,0 tuổi (khoảng tứ phân vị, 36,0-55,0 năm) và trung vị thời gian theo dõi là 2,1 năm.
Tỷ lệ sống sót thô và được điều chỉnh để có hiệu quả là cao nhất là của guselkumab. So với ustekinumab, guselkumab có tỷ lệ nguy cơ đã điều chỉnh (HR) là 0,13 (CI 95%, 0,03-0,56) khi ngừng sử dụng do không hiệu quả.
Tỷ lệ sống sót thấp hơn được thấy với adalimumab (tỷ lệ nguy cơ [HR], 2,37; CI95%, 2,03-2,76), cho thấy nguy cơ ngưng thuốc do không hiệu quả tăng gần 3 lần so với ustekinumab.
Guselkumab, ustekinumab và secukinumab có tỷ lệ sống sót được điều chỉnh tương tự về mức độ an toàn. Ngưng sử dụng do các tác dụng ngoại ý là nhiều nhất với adalimumab (HR, 1,66; CI95%, 1,46-1,89) và ixekizumab (HR, 1,52; CI 95%, 1,13-2,03) so với ustekinumab.
Khả năng tồn tại của thuốc do hiệu quả được phân tầng theo một số đặc điểm của bệnh nhân bao gồm viêm khớp vảy nến, liên quan tới móng tay và dân tộc. Những bệnh nhân không bị viêm khớp vảy nến hoặc liên quan đến móng có tỷ lệ sống sót cao nhất với ustekinumab.
Adalimumab có tỷ lệ sống sót khi dùng thuốc thấp hơn so với ustekinumab ở bệnh nhân châu Á (HR, 3,10; CI 95%, 2,24-4,29) so với người da trắng (HR, 2,36; CI 95%, 2,02-2,76) hoặc các cá nhân thuộc các nhóm chủng tộc/dân tộc thiểu số khác (HR, 2,09, CI 95%, 1,39-3,15).
Thất bại trước đó với adalimumab do không hiệu quả đã làm giảm sự tồn tại của ustekinumab; Thất bại trước đó với ustekinumab làm giảm sự tồn tại của tất cả các thuốc sinh học ngoại trừ guselkumab.
Kết quả từ phân tích này đã chỉ ra cho các nhà nghiên cứu tỷ lệ sống sót sau thuốc của nhiều tác nhân sinh học được sử dụng để điều trị bệnh vảy nến. Các giới hạn của nghiên cứu bao gồm kích thước nhóm thuần tập nhỏ đối với các tác nhân sinh học mới hơn, ixekizumab hoặc guselkumab, có thể gây ra sự sai lệch.
“Thông tin về được kiên trì điều trị lâu dài, tính an toàn và khả năng dung nạp có thể giúp bệnh nhân và các bác sĩ của họ đưa ra quyết định sáng suốt để bắt đầu điều trị bằng liệu pháp sinh học,”các nhà nghiên cứu cho hay.