Theo một nghiên cứu được công bố trên JAMA Dermatology, bệnh nhân bị mụn trứng cá và sẹo mụn chịu gánh nặng đáng kể về mặt tâm lý và thể chất.
Phân tích bao gồm 2 nhóm nghiên cứu những bệnh nhân bị mụn và sẹo mụn. Nghiên cứu được thực hiện tại 6 quốc gia: Canada, Brazil, Pháp, Ý, Đức và Hoa Kỳ.
Những người tham gia nhóm sẹo mụn có sẹo lõm từ trung bình đến nặng ở mặt và không có mụn ít nhất trong 2 năm trước khi nghiên cứu. Những người trong nhóm còn lại có mụn trứng cá từ trung bình đến nặng ở mặt, cổ, vai, ngực và/hoặc lưng.
Tổng cộng có 60 người tham gia, chia đều hai nhóm. Trong những người thuộc nhóm mụn trứng cá (57% phụ nữ, 87% bị mụn trứng cá nặng), 70% từ 13 đến 25 tuổi và 30% từ 26 đến 40 tuổi. Trong nhóm sẹo mụn (60% là phụ nữ), 30% người tham gia từ 18 đến 24 tuổi và 70% từ 25 đến 45 tuổi.
Tổng cộng 56 bệnh nhân đã hoàn thành bài test về nhân cách hóa, với độ dài từ 1 đến 20 câu. Ba chủ đề chính được quan sát là gánh nặng của tình trạng bệnh, thái độ và niềm tin, và mối liên quan với chứng rối loạn nhân cách.
Tác động tâm lý kéo dài trên bệnh nhân mụn và sẹo mụn
Tự ý thức là tác động tâm lý được báo cáo thường xuyên nhất và gánh nặng kéo dài do mụn và sẹo mụn gây ra là vấn đề được lặp đi lặp lại. Lòng tự trọng kém xuất hiện phổ biến hơn ở nhóm mụn trứng cá (11 đối với nhóm mụn so với 4 ở nhóm sẹo mụn).
Sự xấu hổ xuất hiện ở 11 người trong nhóm mụn và 3 người nhóm sẹo mụn. Gánh nặng tài chính được đề cập bởi 5 bệnh nhân trong nhóm mụn và 3 bệnh nhân nhóm sẹo mụn. Bốn bệnh nhân trong mỗi nhóm không đạt được hiệu quả điều trị.
Bệnh nhân sử dụng trang điểm và quần áo để che mụn hoặc sẹo như phương pháp chính để đối phó và duy trì cuộc sống xã hội.
Đối với cả hai nhóm, ý kiến của người khác và áp lực từ bạn bè được coi là yếu tố chính dẫn đến cảm xúc và sự lựa chọn của bệnh nhân.
Các giới hạn của nghiên cứu bao gồm quy mô mẫu và không phát hiện được những khác biệt văn hóa tiềm ẩn giữa những người tham gia. Ngoài ra, các tiếng khác khi được dịch sang tiếng Anh có thể làm giảm độ chính xác về sắc thái.
Chẩn đoán chính xác, thiết lập mối quan hệ tin cậy giữa bác sĩ và bệnh nhân, và cung cấp thông tin về những tác dụng phụ có thể xảy ra giúp cho bệnh nhân có thể giảm bớt cảm xúc tiêu cực.