Tỷ lệ nhiễm trùng nặng cần nhập viện ở bệnh nhân mắc vảy nến hoặc vảy nến khớp đã và đang được điều trị với Ustekinumab (Sterala) thấp hơn so với nhóm được điều trị với thuốc sinh học khác hoặc nhóm thuốc phân tử nhỏ. Kết quả trên được đúc kết từ nghiên cứu dựa vào hai cơ sở dữ liệu lớn.
Hiệu quả điều trị vảy nến ở nhóm thuốc sinh học
Theo tác giả Seoyoung C. Kim và cộng sự từ bệnh viện Brigham and Women’s Hospital/Harvard Medical School ở Boston, tỷ lệ mắc nhiễm trùng nặng cần phải nhập viện trên bệnh nhân được khởi trị bằng Ustekinumab ở nhóm MarketScan là 0,87 trên 100 người/năm và ở nhóm Optum là 0,84 trên 100 người/năm.
Ngược lại, tỷ lệ này ở thuốc sinh học thường được sử dụng nhất – Adalimumab (Humira) là 1,19 người/năm ở nhóm MarketScan và 1,51 người/năm ở nhóm Optum theo các nghiên cứu được báo cáo trên trang Arthritis Care & Research.
Hiện nay có nhiều nhóm thuốc được sử dụng để điều trị vảy nến và vảy nến khớp, bao gồm ức chế TNF, các tác nhân ức chế IL-17, IL-23 và IL-12/23, các nhóm thuốc phân tử nhỏ như ức chế JAK và ức chế PDE-4.
Hầu hết những nghiên cứu trước đây đánh giá mức độ an toàn của các nhóm thuốc này đều tập trung vào so sánh nguy cơ của chúng với các thuốc kháng thấp thông thường và những nhóm thuốc truyền thống như glucocorticoids.
Ít dữ liệu về so sánh mức độ an toàn – đặc biệt là những tình trạng tương đối hiếm gặp như nhiễm trùng nghiêm trọng giữa các nhóm thuốc sinh học và nhóm thuốc phân tử nhỏ.
Đánh giá nguy cơ giữa các nhóm thuốc điều trị vảy nến
Vì vậy, để giúp các nhà lâm sàng và bệnh nhân đánh giá nguy cơ giữa các nhóm thuốc hiện hành, nhóm của tác giả Kim đã tiến hành một nghiên cứu đoàn hệ trên 123.383 bệnh nhân mắc vảy nến hoặc vảy nến khớp trong 2 cơ sở dữ liệu lớn từ năm 2009 đến năm 2017.
Nghiên cứu bao gồm các nhóm thuốc như adalimumab, apremilast, certolizumab (Cimzia), etanercept (Enbrel), golimumab (Simponi), infliximab (Remicade), ixekizumab (Taltz), secukinumab (Cosentyx), and ustekinumab.
Kết cục quan tâm thứ nhất của nghiên cứu là tình trạng nhập viện vì nhiễm trùng do vi khuẩn, vi-rút hoặc nhiễm trùng cơ hội. Độ tuổi trung bình của nghiên cứu từ 47 đến 53 tuổi và phần lớn là bệnh nhân nữ. Vảy nến đơn thuần là chẩn đoán chiếm tỷ lệ cao nhất trong nghiên cứu.
Do trong phân tích ban đầu cho thấy Ustekinumab có tỷ lệ nhiễm trùng cần nhập viện thấp nhất nên nó được sử dụng như tiêu chuẩn để so sánh với 8 nhóm thuốc khác.
Tỷ số nguy hại (hazard ratio)
Giữa Ustekinumab của các nhóm thuốc sinh học khác, lần lượt như sau:
Adalimumab, HR 1,66 (95% CI 1,34 – 2,06)
Apremilast, HR 1,42 (95% CI 1,02 – 1,96)
Certolizumab, HR 1,09 (95% CI 0,68 – 1,75)
Etanercept, HR 1,39 (95% CI 1,01 – 1,90)
Golimumab, HR 1,74 (95% CI 1,00 – 3,03)
Infliximab, HR 2,92 (95% CI 1,80 – 4,72)
Ixekizumab, HR 2,98 (95% CI 1,20 – 7,41)
Secukinumab, HR 1,84 (95% CI 1,24 – 2,72)
Nhiễm trùng và nhiễm herpes zoster
Kết cục quan tâm kế đến của nghiên cứu là tình trạng nhiễm trùng nghiêm trọng và tình trạng nhiễm herpes zoster. Tỷ số nguy hại so với Ustekinumab của các nhóm thuốc sinh học khác về tình trạng nhiễm trùng nghiêm trọng, lần lượt như sau:
Adalimumab, HR 1,60 (95% CI 1,10 – 2,34)
Apremilast, HR 1,47 (95% CI 1,01 – 2,13)
Certolizumab, HR 0,58 (95% CI 0,31 – 1,10)
Etanercept, HR 1,42 (95% CI 1,00 – 2,03)
Golimumab, HR 1,75 (95% CI 0,88 – 3,47)
Infliximab, HR 2,99 (95% CI 1,90 – 4,27)
Ixekizumab, HR 3,31 (95% CI 1,02 – 10,73)
Secukinumab, HR 1,62 (95% CI 1,04 – 2,52)
Đối với herpes zoster, tỷ số nguy hại so với Ustekinumab dao động từ 0,53 (95% CI 0,27 – 1,03) với Certolizumab và 1,47 (95% CI 0,64 – 3,36) với Golimumab.
Ustekinumab giảm thấp tỷ lệ nhập viện do nhiễm trùng nặng
Nhóm nghiên cứu tìm thấy ở những bệnh nhân mắc vảy nến hoặc vảy nến khớp khởi trị với Ustekinumab có tỷ lệ nhiễm trùng nghiêm trọng cần nhập viện thấp hơn so với các nhóm bệnh nhân được khởi trị với ức chế TNF, ức chế IL-17 và apremilast.
Tuy nhiên nguy cơ nhiễm herpes zoster không khác biệt giữa các nhóm điều trị.
Nguy cơ thấp hơn được tìm thấy ở Ustekinumab là kết quả không mong đợi trước của nhóm nghiên cứu vì họ tiên đoán rằng nguy cơ thấp nhất phải thuộc về Apremilast – nhóm thuốc điều biến miễn dịch (immunomodulating drug), chứ không phải là nhóm ức chế miễn dịch (immunosuppressive drug) như Ustekinumab.
Giải thích cho điều này nhóm nghiên cứu cho rằng có thể do nhóm bệnh nhân được khởi trị với Apremilast vốn là nhóm bệnh nhân lớn tuổi hơn và có nhiều bệnh đồng mắc hơn. Thêm nữa, do sự thiếu hụt thông tin về thời gian bệnh và hoạt độ của bệnh trong cơ sở dữ liệu cũng làm hạn chế nghiên cứu này.
Nhóm tác giả kết luận rằng, cần có thêm nhiều nghiên cứu trong tương lai để khẳng định kết quả nghiên cứu này và tìm ra cơ chế phía sau sự khác biệt về nguy cơ nhiễm trùng giữa các nhóm thuốc.
Tài liệu tham khảo
Jin, Y., Lee, H., Lee, M.P., Landon, J.E., Merola, J.F., Desai, R.J. and Kim, S.C. (2021), Risk of Hospitalized Serious Infection After Initiating Ustekinumab or Other Biologics for Psoriasis or Psoriatic Arthritis. Arthritis Care & Research. Accepted Author Manuscript. https://doi.org/10.1002/acr.24630