Methotrexate (MTX) vẫn là một trong những lựa chọn điều trị toàn thân đầu tay được sử dụng thường xuyên nhất ở những bệnh nhân mắc bệnh vẩy nến thể mảng.
Thử nghiệm đối đầu trực tiếp adalimumab, infliximab và ixekizumab, cũng như gián tiếp, cho thấy hiệu quả của MTX thấp hơn so với các liệu pháp sinh học.
Các nghiên cứu so sánh cho thấy MTX đường uống có thể kém tối ưu so với tiêm dưới da (SC) do tạo ra mức độ MTX polyglutamate có hoạt tính sinh học thấp hơn.
Một thử nghiệm lâm sàng cho thấy khả năng kiểm soát bệnh lâu dài được cải thiện khi tiêm dưới da MTX so với uống, nhưng so sánh đối đầu trực tiếp không được thực hiện.
Đường dùng không ảnh hưởng đến tỷ lệ đáp ứng trong một nghiên cứu thực tế gần đây.
Dưới đây là báo cáo hiệu quả của MTX tiêm dưới da so với MTX uống tại Đức (Psobest) :
Bệnh nhân bắt đầu sử dụng MTX đường uống hoặc tiêm dưới da lần đầu tiên và có thời gian quan sát ≥ 12 tháng (ngày 31 tháng 12 năm 2018) được đưa vào phân tích bất kể sử dụng thuốc bao lâu.
Bệnh nhân bị loại trừ nếu bị vẩy nến nhẹ tại thời điểm ban đầu hoặc nếu chuyển đường dùng MTX trong thời gian theo dõi 52 tuần.
Bệnh nhân điều trị bằng đường uống (n = 49) hoặc tiêm dưới da (n = 157) cân bằng về tuổi, giới tính, cân nặng, tỷ lệ eo -hông, thời gian mắc bệnh, tiền sử gia đình mắc vẩy nến, chẩn đoán xác định vẩy nến khớp và vẩy nến móng.
Trước khi điều trị, điểm PASI trung bình là 20,2 (nhóm uống) và 18,6 (nhóm tiêm dưới da) và điểm trung bình của chỉ số chất lượng cuộc sống da liễu (DLQI) tương ứng là 9,8 và 11,8.
Chỉ duy nhất một bệnh nhân trong nhóm tiêm dưới da từng điều trị thuốc sinh học.
43% ở nhóm uống và 45,9% nhóm tiêm dưới da trước đó đã được điều trị toàn thân bằng các phương pháp truyền thống.
Chỉ số PASI tương đối và tuyệt đối được ghi nhận ở tuần 12 và 52 ở những bệnh nhân tham gia đầy đủ (nhóm quan sát ) và ở những bệnh nhân ngừng MTX hoặc mất dấu (nhóm không trả lời,NRI)
Nhiều bệnh nhân đạt được tiêu chí đáp ứng tối thiểu [cải thiện ≥ 50% chỉ số PASI (PASI 50) và PASI <5] ở tuần 12 với tiêm dưới da hơn so với đường uống.
Các tiêu chí đáp ứng tối thiểu và tối ưu (PASI 90, PASI <3) tiêm dưới da cho kết quả tốt hơn so với MTX uống sau 1 năm điều trị (NRI).
Trong số những bệnh nhân tiêm dưới da, đáp ứng PASI 90 / PASI <3 ở tuần 52 được ghi nhận là 29,3% / 43,3% (NRI) và 35,1% / 53,5% (nhóm quan sát).
Các đáp ứng tương tự đã được quan sát thấy ở những bệnh nhân có mức độ trung bình (PASI ≥ 10 và ≤ 20; n = 138) và nặng (PASI> 20; n = 68), với xu hướng cho kết quả PASI tuyệt đối cao hơn trong phân nhóm trước đây (Bảng 1).
Trong số những bệnh nhân vẩy nến trung bình, điểm PASI trung bình của nhóm tiêm dưới da và MTX uống giảm tương ứng từ 14,0 (2,9) và 14,8 (2,8), lúc ban đầu xuống 4,3 (4, 2) và 5,0 (3,8) ở tuần 12 và đến 3,3 (3,7) và 4, 4 (4 ,0) ở tuần 52; và với bệnh nhân bị bệnh vẩy nến nặng từ 28,2 (9,5) và 30,5 (9,7) lúc ban đầu đến 6,9 (7,3) và 15,6 (14,9) ở tuần 12 (P < 0,05) và 6,9 (7,8) và 6,6 (5,9) ở tuần 52 (nhóm quan sát).
Dựa theo kết quả PASI 90, điểm DLQI là 0 hoặc 1, đạt được với nhóm tiêm dưới da và uống lần lượt là 40,9% và 33% ở bệnh nhân vẩy nến trung bình và 42,2% và 31% với vẩy nến nặng ở tuần 52 (NRI) (không đáng kể).
Lý do ngừng sử dụng MTX phổ biến nhất trong 52 tuần là lý do an toàn [8/49 (16%) với MTX uống và 7/157 (4,5%) với tiêm dưới da] và lý do không còn sang thương [1/49 (2%) với MTX uống và 6/157 (3,8%) với tiêm dưới da].
Mở rộng những phát hiện trước đây từ một nghiên cứu hồi cứu, phân tích tuy nhỏ nhưng nghiêm ngặt về mặt dữ liệu đã hỗ trợ giá trị của MTX tiêm dưới da so với MTX uống.
Tỷ lệ đáp ứng PASI 50 và PASI <5 cao hơn ở tuần 12 với MTX tiêm dưới da, được lấy làm bằng chứng cho việc đáp ứng khởi đầu nhanh hơn.
Hơn nữa, MTX tiêm dưới da đáp ứng lâu dài ổn định hơn, được chỉ ra bởi tỷ lệ đáp ứng PASI 90 cao hơn so với MTX uống ở tuần 52.
Tỷ lệ đáp ứng PASI 90 là 29,3% (NRI) tương tự như tỷ lệ đáp ứng PASI 90 27% (NRI) được quan sát ở tuần thứ 52 trong nghiên cứu METOP, điều này giúp trấn an sự khác biệt tiềm tàng giữa thử nghiệm lâm sàng và quần thể thực.
Xu hướng cho hiệu quả tốt hơn của MTX tiêm dưới da cũng liên quan đến tính an toàn, có lợi hơn, do số lượng bệnh nhân ngừng sử dụng MTX uống vì lý do an toàn cao hơn.Vì vậy, MTX tiêm dưới da thay vì MTX uống có thể được xem xét trong điều trị lâu dài bệnh vẩy nến.
Nguồn tham khảo: