Bác sĩ Warren R. Heymann, January 27, 2021, Vol. 3, No. 4
Điều trị theo vùng là phương pháp then chốt để quản lý hiệu quả bệnh dày sừng ánh sáng (actinic keratosis – AK).
Hai năm trước, bài báo trên New England Journal of Medicine khẳng định 5 -fluoracil (5 – FU) là biện pháp điều trị tốt nhất (vượt trội hơn imiquimode, MAL-PDT và ingenol mebutate).
Vì sao phương pháp vùng điều trị AK thay đổi?
Trong 2 năm qua, các phương pháp vùng điều trị AK đã thay đổi vì: (1) Leo Pharma đã thu hồi ingenol mebutate (Picato) vì có thể làm tăng nguy cơ ung thư da, (2) Liệu pháp kết hợp 5-FU và calcipotriene có thể cho kết quả trong vài ngày chứ không phải vài tuần.
Bên cạnh đó, Almirall công bố là Cục Quản lý Thực – Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã cho phép dùng tirbanibulin (Klisyri) thoa trong 5 ngày đề điều trị AK ở vùng mặt và da đầu. Thuốc dự kiến sẽ có mặt trên thị trường trong năm nay.
Bài viết này chỉ viết về tirbanibulin.
Hiệu quả điều trị AK với tirbanibulin
Theo Liu cùng cộng sự, tirbanibulin là chất ức chế cạnh tranh không ATP của SRC – men tyrosine kinase không thụ thể có khả năng sinh ung. Tirbanibulin đang được nghiên cứu để điều trị nhiều loại ung thư và AK.
Tirbanibulin ức chế tubulin dữ dội bằng cách gây khử trùng hợp tubulin và duy trì tế bào ở pha G2/M ở nồng độ nanomolar thấp (tương tự như colchicine vì tirbanibulin được chứng minh là có thể gắn được vào vùng colchicine bám tại β-tubulin).
Nhưng liên kết này có thể tự tháo được nên độc tính thuốc khá thấp. Đồng thời, tirbanibulin còn kích hoạt quá trình phân cắt caspase-3 và poly (ADP-ribose) polymerase làm tăng cảm ứng p53, khởi hoạt quá trình apoptosis.
Nếu cơ chế của thuốc là tác động vào vùng bám của colchinie trên β-tubulin, tại sao ta không thử bôi colchicine để điều trị AK?
Ý tưởng này đã được thực hiện từ khá lâu. Vào năm 1968, Marsall đã chia sẻ kinh nghiệm dùng N-desacetyl thiocolchine (Thiocolciran) cho 104 bệnh nhân và dùng N-desacetyl methylcolchicine (Colcémide) cho 40 bệnh nhân.
75/140 bệnh nhân đáp ứng tốt với Thiocolciran và 14/50 đáp ứng tốt với Colcémide.
Các nghiên cứu khác cũng cho thấy kết quả tương tự khi 7/10 bệnh nhân lui bệnh hoàn toàn khi dùng kem colchicine 1% và tỉ lệ sạch sang thương đã ung thư hóa vùng cẳng tay khi dùng kem colchicine 0,5% không thua kém liệu pháp quang động với methylaminolevulinate (17% so với 19%).
Faghihi cùng cộng sự đã thực hiện nghiên cứu mù đôi, ngẫu nhiên trên 70 bệnh nhân để so sánh hiệu quả của gel colchicine 1% với kem diclofenac sodium 3% trong vòng 6 tuần.
Cả 2 nhóm thuốc đều làm giảm kích thước sau điều trị với P<0,001. Diện tích sang thương trung bình ở cả 2 nhóm như nhau ở từng thời điểm đánh giá (p>0,05) nhưng không bệnh nhân nào trong nhóm dùng gel colchicine nổi hồng ban còn nhóm dùng diclofenac soium có 8 bệnh nhân bị (22,9%).
Kết quả trên cho thấy gel colchicine 1% an toàn, hiệu quả, ít tác dụng phụ hơn diclofenac.
Nghiên cứu sử dụng tirbanibulin điều trị AK
Cho đến ngày tôi viết bài này (8/1/2020), tôi chỉ tìm được trên PubMed một nghiên cứu sử dụng tirbanibulin điều trị AK. Kempers cùng cộng sự thực hiện nghiên cứu pha 1 và pha 2 cho thuốc mỡ tirbanibulin 1%.
Trong nghiên cứu pha 1, 4 nhóm điều trị dùng tirbanibulin dạng mỡ 1% ở 25 hay 100 cm2 sang thương trên cẳng tay, 1 lần/ngày trong 3 – 5 ngày và đánh giá lại vào ngày thứ 45.
Trong nghiên cứu pha 2, 2 nhóm điều trị dùng tirbanibulin dạng mỡ 1% thoa lên các sang thương trên da mặt và da đầu (tổng diện tích >25cm2), 1 lần/ngày trong 3 – 5 ngày và đánh giá lại vào ngày 57.
Kích thước sang thương, tỉ lệ sạch sang thương, tính an toàn và dược động học là các tiêu chí được đánh giá trong nghiên cứu. Tất cả 30 người trong nghiên cứu pha 1 đều giảm sang thương ở ngày thứ 45.
Tỉ lệ sạch sang thương ở ngày 57 của nhóm dùng dùng thuốc 5 ngày và nhóm dùng thuốc 3 ngày trong nghiên cứu pha 2 lần lượt là 43% và 32%.
Tác dụng phụ thường là hồng ban tại chỗ tạm thời, tróc vảy, ngứa và đau. Nồng độ tirbanibulin trong máu thấp hay không đo được.
Nhóm tác giả kết luận rằng thuốc mỡ tirbanibulin 1% là phương thức dung nạp tốt và hiệu quả trong giảm AK. Dựa vào kết quả pha 2, nghiên cứu pha 3 sẽ thực hiện nghiên cứu trên liệu trình dùng 5 ngày.
Dữ liệu về nghiên cứu pha 3 tôi tìm được y hệt thông cáo báo chí của Almirall ngày 15/12/2021 và vì nó không được đăng trên PubMed nên tôi sẽ không đưa thông tin cũng như bàn về nó.
Việc chỉ cần dùng tirbanibulin trong thời gian ngắn đã có kết quả thật sự làm tôi thấy rất mong chờ nhưng mấu chốt là liệu hiệu quả của nó ra sao khi so với đương kim vô địch 5-FU.
Dù sao, tất cả những phương pháp điều trị AK an toàn và hiệu quả đều đáng được hoan nghênh, chúng ta hãy chờ xem liệu tirbanibulin có thể mở ra một chương mới trong điều trị AK hay không.
Bàn luận của chuyên gia về tirbanibulin
Bác sĩ Ashley Decker, Phó giáo sư Y khoa, Cooper University Health Center
Dày sừng ánh sáng (AK) là một trong những chẩn đoán thường gặp của bác sĩ da liễu. Ngoài ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống, AK còn là gánh nặng tài chính khá lớn cho hệ thống y tế.
Như TS.Heymann bàn luận ở trên, so với imiquimode, MAL-PDT và ingenol, liệu pháp điều trị vùng bằng 5-FU vẫn cho thấy hiệu quả điều trị vượt trội. Mặc dù vậy, thời gian điều trị lâu và tác dụng phụ tại chỗ nhiều làm khá nhiều bệnh nhân không muốn lựa chọn 5-FU điều trị.
Theo kết quả nghiên cứ pha 1 và pha 2, tirbanibulin là một phương pháp đầy triển vọng nhưng cần có nghiên cứu đối đầu so sánh hiệu quả của nó với các thuốc hiện có mới có thể khẳng định được tiềm năng thật sự của nó.
Nguồn:
Nguồn: https://www.aad.org/dw/dw-insights-and-inquiries/archive/2021/tirbanibulin-ak