Theo kết quả của một nghiên cứu phân tích tổng hợp, liệu pháp quang động học kết hợp với dung dịch axit aminolevulinic 20% cho thấy kết quả điều trị tốt ở các sang thương dày sừng ánh sáng với các tác dụng phụ tối thiểu.
Theo bác sĩ Joseph Gorelick, MSN, FNP-C, thuộc Viện Da California ở San Jose, và bác sĩ Da Liễu Scott Freeman, MCMS, PC-A, tại Petersburg, Florida: “Dày sừng ánh sáng (actinic keratoses: AK) là những tổn thương có khả năng biến đổi thành ung thư da không phải dạng ung thư tế bào hắc tố.”
Liệu pháp kết hợp điều trị quang động học với dung dịch axit aminolevulinic 20% (ALA- PDT) gây mẫn cảm là một trong số các phương pháp điều trị khác nhau được sử đụng trong điều trị dày sừng ánh sáng.
Trong nghiên cứu phân tích tổng hợp hiện tại, bác sĩ Gorelick và bác sĩ Freeman đã xem xét các dữ liệu thử nghiệm lâm sàng cho sự kết hợp này, đặc biệt ở những bệnh nhân bị dày sừng ánh sáng ở mặt, da đầu và chi trên.
Các thử nghiệm lâm sàng quan sát tính hiệu quả và an toàn của ALA-PDT đã chứng minh được các kết quả tương tự của phương pháp này trong điều trị dày sừng ánh sáng khi so sánh với các lựa chọn điều trị khác mặc dù các hướng dẫn điều trị của phương pháp này có sự khác biệt.
Ví dụ, các hướng dẫn của Anh cho rằng việc điều trị dày sừng ánh sáng có thể không hoàn toàn cần thiết, trong khi những người ở Canada lại ủng hộ việc điều trị.
Dữ liệu cho thấy rằng ALA-PDT có thể mang lại kết quả tốt hơn một số phương pháp điều trị khác và đã thể hiện tính ưu việt hơn so với nhóm chứng, với ít tác dụng phụ được theo dõi trong thời gian dài sau đó.
Một nghiên cứu cho thấy ALA-PDT mang lại tỷ lệ đáp ứng hoàn toàn là 66% so với 11% đối với các phương pháp khác Ở những bệnh nhân có nguy cơ cao, ALA-PDT mang lại tỷ lệ đáp ứng hoàn toàn là 36% và 37,5%, so với các phương pháp điều trị khác chỉ đạt 18,9%.
Theo các tác giả, các bệnh nhân có nhiều sang thương, có thể được hưởng lợi từ ALA-PDT. Kết quả thẩm mỹ đạt được với phương pháp này có thể vượt trội hơn so với kết quả được báo cáo cho phương pháp áp lạnh.
Các nhà nghiên cứu cũng lưu ý rằng việc bệnh nhân được trang bị kiến thức kỹ lưỡng về nguy cơ rủi ro-lợi ích của ALA-PDT là bước cần thiết của phương pháp tiếp cận bệnh nhân. Người bệnh cần được thông tin đầy đủ về phác đồ, cùng với tầm quan trọng của việc tuân thủ điều trị, quản lý các phản ứng và triệu chứng cục bộ cần can thiệp liên tục.