U mềm lây gặp ở 5,1 – 11,5% trẻ em dưới 16 tuổi, là 1 trong 50 bệnh da thường gặp nhất. Bệnh gây ra do virus thuộc nhóm DNA poxvirus gây ra. Virus nhân lên tại các tế bào keratin của lớp thượng bì và tạo nên các tế bào thượng bì tăng sản, gây nên u mềm lây (molluscum contagiosum).
Thời gian ủ bệnh là từ 2 đến 8 ngày. Bệnh lành tính, có thể tự giới hạn trong khoảng 13,3 tháng ở trẻ em có độ tuổi từ 4 đến 15 tuổi nhưng lại rất dễ lây lan từ vùng này sang vùng khác của cơ thể và lây từ người này qua người khác qua tiếp xúc trực tiếp da qua da, đồ vật qua da hay dùng chung bồn tắm.
Những người có tình trạng suy giảm miễn dịch, có bệnh viêm da cơ địa và có hoạt động tình dục không lành mạnh thường có nguy cơ mắc bệnh cao hơn những người khác.
Tính đến hiện nay, vẫn chưa có một hướng dẫn chính thức cho điều trị và quản lí u mềm lây cũng như chưa có loại thuốc nào được Cơ quan Quản lý Thực – Dược phẩm Mỹ (FDA) chấp thuận để điều trị bệnh. Các biện pháp điều trị hiện nay chủ yếu nhằm giảm nhẹ triệu chứng, giảm thiểu sự lây lan, ngăn ngừa sự tạo thành sẹo và cải thiện thẩm mỹ.
Cantharidin là 1 hoá chất đã được dùng để điều trị u mềm lây trên 60 năm. Cơ chế hoạt động của chất này chưa được xác định rõ, có giả thuyết cho rằng chất này có thể làm yếu hay thoái giáng các demosome, làm các tế bào keratin có virus bong nhanh ra, loại bỏ virus ra khỏi cơ thể.
Trước đây, cantharidin thường được chứa trong các lọ, mỗi lần mở lọ đều có thể làm ảnh hưởng đến nồng độ của chất. Hơn nữa việc dùng đầu tăm bông để thoa thuốc dễ gây tràn thuốc vào những vùng không bị tổn thương, làm ảnh hưởng vùng da xung quanh.
Vì tính chất như vậy nên thường ít có nghiên cứu nào xác định được tính hiệu quả và độ an toàn của thuốc. VP-102 là chế phẩm chứa 0,7% cantharidin cùng với các tá dược như tím gentian, actone và denatonium benzoate, được đóng gói trong 1 tube có đầu tận nhỏ, đủ để thoa lên vùng da có thương tổn. Tube này chỉ dùng 1 lần.
Một nghiên cứu mù đôi, có nhóm chứng, được thực hiện dưới dạng nghiên cứu lâm sàng pha III với VP-102. Đối tượng tham gia nghiên cứu là những người mắc u mềm lây trên 2 tuổi, đồng ý không dùng bất cứ phương pháp nào tác động lên u mềm lây từ 14 ngày trước nghiên cứu đến sau khi hoàn thành nghiên cứu.
Những người tham gia nghiên cứu sẽ được chia thành 2 nhóm có sự tượng đồng về tuổi, thời gian chẩn đoán bệnh, tỉ lệ mắc viêm da cơ địa và số lượng sang thương u mềm lây.
1 nhóm dùng VP-102 và 1 nhóm dùng tá dược (tím gentian, actone và denatonium benzoate) của VP-102. Mỗi bệnh nhân sẽ được điều trị tối đa 4 lần bằng cách thoa thuốc vào những vùng da có u mềm lây và lau đi sau 24 giờ. Có thể lau sớm hơn nếu xuất hiện các triệu chứng như ngứa, hồng ban, bóng nước,…
Mỗi lần điều trị cách nhau 21 ngày. Độ an toàn của thuốc được đánh giá vào thời điểm 24 giờ, 7 ngày và 14 ngày sau dùng thuốc. Hiệu quả của thuốc được đánh giá vào ngày thứ 21, 42, 63, 84 của điều trị.
Theo kết quả thu được, tỷ lệ bệnh nhân sạch tất cả sang thương ở nhóm dùng thuốc VP-102 cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm dùng tá dược ở cả 4 thời điểm (p ≤ 0,0002). Tỉ lệ sạch sang thương ở nhóm dùng thuốc VP-102 ở 4 thời điểm lần lượt là 8,4%; 16,8%; 30,0% và 50,0%. Trong khi tỷ lệ này ở nhóm dùng tá dược là 2,8%; 6,4%; 10,6% và 15,6%. Bên cạnh đó, số lượng sang thương u mềm lây cũng giảm rõ rệt hơn ở nhóm dùng thuốc VP-102 với tỉ lệ giảm đạt 76,0% so với thời điểm chưa điều trị.
Các tác dụng phụ được ghi nhận khi dùng thuốc VP-102 như đau, ngứa, bóng nước, hồng ban hay đóng mài cũng gặp ở nhóm dùng tá dược nên có thể những triệu chứng này là một phần quá trình diễn tiến tự nhiên của u mềm lây.
Tuy kết quả đạt được cho thấy VP-102 có hiệu quả trong điều trị u mềm lây nhưng nghiên cứu này cũng có một số giới hạn như đối tượng tham gia nghiên cứu không đa dạng, chủ yếu là người da trắng, nhỏ hơn 18 tuổi và không có sang thương ở niêm mạc nên không thể ngoại suy rộng cho dân số chung.
Thêm vào đó, nghiên cứu chỉ lưu ý vào tổng số sang thương chứ không chú ý vào số lần điều trị cho từng sang thương nên không thể xây dựng được hướng dẫn điều trị cụ thể khi dùng thuốc.
U mềm lây chỉ cần 2 -8 ngày để ủ bệnh nên trong thời gian điều trị, nếu bệnh nhân không giữ gìn cẩn thận, tỷ lệ sạch sang thương sẽ bị sai lệch, dẫn đến kết quả nghiên cứu không chính xác.