Theo một nghiên cứu công bố trên the British Journal of Dermatology, bệnh nhân vảy nến có nguy cơ mắc các bệnh nhiễm trùng nặng và hiếm cao hơn đáng kể so với dân số chung.
Nghiên cứu được thực hiện bởi tiến sĩ Loft cùng cộng sự tại Bệnh viện Đại học Y Copenhagen. Đối tượng nghiên cứu là những bệnh nhân 18 tuổi trở lên, ở tất cảc các thể và mức độ của bệnh vảy nến.
Tổng cộng có 94.450 bệnh nhân và 566.700 người ở nhóm chứng tham gia từ năm 1997 đến năm 2018.
Trường hợp nhiễm trùng nặng được định nghĩa là những trường hợp cần nhập viện và nhiễm trùng hiếm gặp là những trường hợp nhiễm HIV, TB, HBV và HCV.
Độ tuổi trung bình của những người tham gia là 52,3 tuổi và hơn một nửa là phụ nữ.
Nhìn chung, tỷ lệ mắc bệnh nhiễm trùng nặng và hiếm gặp ở bệnh nhân mắc bất kỳ thể vảy nến nào là 3.104,9 trên 100.000 người/năm, so với 2.381,1 đối với nhóm chứng, tỉ số nguy cơ (aHR) được điều chỉnh theo giới tính, tuổi, dân tộc, tình trạng kinh tế xã hội, thói quen sử dụng rượu và chỉ số bệnh đi kèm Charlson là 1,29.
Tỷ lệ mắc nhiễm trùng nặng lần lượt là 2.005,1 so với 1.531,8 trên 100.000 người/năm đối với bệnh nhân vảy nến và nhóm chứng.
Kết quả tương tự khi các trường hợp nhiễm trùng nặng và nhiễm trùng hiếm gặp được phân tích riêng biệt.
Khi đánh giá dữ liệu theo mức độ bệnh vảy nến, tỷ lệ mắc bệnh nhiễm trùng nặng và hiếm gặp ở bệnh nhân vảy nến nặng là 3.847,7 trên 100.000 người/năm, so với 2.351,9 trên 100.000 người/năm ở nhóm chứng (aHR, 1,58) và cũng cao hơn ở bệnh nhân mức độ nhẹ.
Sau khi thực hiện nghiên cứu, các tác giả nhận thấy rằng bệnh nhân vảy nến đều bị ảnh hưởng về khả năng miễn dịch nên dễ bị nhiễm trùng hơn.
Ngoài ra, nguy cơ nhiễm trùng cũng có thể xuất phát từ các phương pháp điều trị, hơn là vì mức độ nghiêm trọng của bệnh.
Cùng quan điểm với nhóm tác giả, theo tiến sĩ bác sĩ da liễu người Mỹ David Robles, các gene và cytokine tiền viêm liên quan đến bệnh vảy nến đóng vai trò trong điều chỉnh hệ thống miễn dịch và/hoặc hệ vi sinh vật, có thể góp phần vào việc tăng nguy cơ nhiễm trùng.
Kết quả nghiên cứu bị hạn chế bởi một số yếu tố bao gồm việc thiếu dữ liệu về các yếu tố gây nhiễu như cân nặng, chỉ số cơ thể và tình trạng hút thuốc.
Các hạn chế khác bao gồm sai lệch giám sát tiềm ẩn và đánh giá mức độ nặng bằng việc sử dụng đơn thuốc thay vì dùng chỉ số PASI.
Tuy nhiên, các kết quả đã được củng cố bởi kích thước cỡ mẫu lớn và cho thấy bệnh nhân ở bất kì thể vảy nến nào đều có tỷ lệ nhiễm trùng nặng hoặc hiếm cao hơn so với dân số chung.
Các nhà khoa học cho rằng nghiên cứu về khía cạnh này đặc biệt quan trọng vì nguy cơ nhiễm trùng gia tăng liên quan đến các phương pháp điều trị sinh học và ức chế miễn dịch đối với bệnh vảy nến.
Các bác sĩ lâm sàng bắt buộc phải lưu ý khả năng nhiễm trùng nặng hoặc hiếm gặp để có thể can thiệp sớm hơn.