Một nghiên cứu mới cho thấy bệnh nhân mắc các bệnh da và khớp nặng thường có sức khỏe răng miệng và chất lượng cuộc sống kém hơn.
Các nhà nghiên cứu, dẫn đầu bởi Yvonne Kiernan, đã đánh giá sức khỏe răng miệng và chất lượng cuộc sống của những bệnh nhân mắc các bệnh viêm da/viêm khớp đang được điều trị bằng liệu pháp sinh học hoặc toàn thân.
Sức khỏe răng miệng là thiết yếu đối với sức khỏe nói chung và chất lượng cuộc sống (QoL). Sức khỏe răng miệng kém có liên quan đến bệnh phổi, tim mạch, tiểu đường và kết quả bất lợi đến thai kỳ, mặc dù mối quan hệ nhân quả vẫn chưa được xác định rõ ràng.
Các nhà nghiên cứu cũng lưu ý rằng những người mắc các bệnh viêm da/viêm khớp cho biết thường khó chịu hoặc đau miệng hơn, mức độ bệnh nha chu, khô miệng và tổn thương niêm mạc miệng cũng cao hơn so với nhóm chứng khỏe mạnh.
Nghiên cứu
Trong nghiên cứu cắt ngang, tổng cộng có 100 bệnh nhân (≥18 tuổi), chia đều 2 nhóm là nhóm bệnh da/ khớp và nhóm khỏe mạnh.
Bệnh nhân được đánh giá sức khỏe răng miệng bằng một bảng câu hỏi gồm 16 mục như đau/khó chịu ở miệng, khô miệng, thói quen vệ sinh răng miệng, sức khỏe răng miệng liên quan đến chất lượng cuộc sống, chế độ ăn uống, hút thuốc, rượu và giáo dục.
Nha sĩ khám lâm sàng dựa trên các mẫu chuẩn quốc tế của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), bao gồm đánh giá sức khỏe nha chu và sự hiện diện của các tổn thương niêm mạc miệng.
Kết quả
Kiernan và các cộng sự đã tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ khô miệng giữa bệnh nhân mắc các bệnh da/khớp và nhóm chứng (tương ứng là 82% so với 20%; P = 0,001).
Những bệnh nhân mắc bệnh da/khớp có nguy cơ bị khô miệng cao gấp 18 lần (OR: 18,2; KTC 95%: 6,7– 49,6), có tới 57% bệnh nhân rất thường xuyên bị khô miệng.
Hơn nữa, chỉ 60% bệnh nhân nhóm bệnh đánh răng hai lần mỗi ngày, so với 80% của nhóm chứng (P = 0,037).
Kết quả khám lâm sàng cho thấy những bệnh nhân nhóm bệnh có trung bình 7,7 chiếc răng bị mất, trong khi ở nhóm chứng là 4,4 chiếc răng bị mất (P = 0,029).
Và cuối cùng, những bệnh nhân nhóm bệnh có sự mất gắn kết lâm sàng (một dấu hiệu cho bệnh nha chu) nhiều hơn đáng kể ở tất cả các phần nối tiếp sextants so với nhóm chứng.
Các chẩn đoán phổ biến nhất là vẩy nến/viêm khớp vảy nến (48%), tiếp theo là viêm khớp dạng thấp (36%), và lupus ban đỏ hệ thống (6%). Adalimumab (28%) là phương pháp điều trị được dùng phổ biến nhất cho những bệnh nhân này, cũng như etanercept (28%) và methotrexate (16%).
Nghiên cứu này cho thấy mối liên quan giữa sức khỏe răng miệng và chất lượng cuộc sống ở những bệnh nhân bị viêm da và viêm khớp nặng, đang được điều trị bằng liệu pháp sinh học hoặc toàn thân.
Các bác sĩ da liễu nên được đào tạo sâu hơn về sức khỏe răng miệng để tối ưu hóa việc quản lý sức khỏe ở những bệnh nhân mắc các bệnh tự miễn nặng.