Nhiều phương pháp chuẩn bị vị trí tiếp nhận hiệu quả ở những bệnh nhân đang điều trị bạch biến bằng phẫu thuật đã được nêu trong dữ liệu nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Dermatologic Therapy.
Trong một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên trên bệnh nhân trải qua phương pháp huyền phù tế bào biểu bì không nuôi cấy hay dung dịch keo tế bào biểu bì không nuôi cấy (noncultured epidermal cell suspension – NCES) đối với bệnh bạch biến.
Việc chuẩn bị vị trí bằng kỹ thuật mài da hoặc kỹ thuật cryoblister (làm rộp da bằng hệ thống lạnh phun lỏng cryo) có liên quan đến kết quả tái tạo sắc tố tốt và sự hài lòng của bệnh nhân cao.
Chuẩn bị bằng kim lăn dermaroller (được biết đến dưới tên gọi Liệu pháp Tăng sinh Collagen) có sự tái tạo sắc tố kém hơn so với các kỹ thuật khác.
Mặc dù NCES là một hình thức điều trị bệnh bạch biến được thiết lập tốt, nhưng phương pháp chuẩn bị vị trí tiếp nhận tối ưu vẫn chưa rõ ràng.
Để so sánh hiệu quả tương đối của các phương pháp chuẩn bị chung, các nhà nghiên cứu đã tuyển bệnh nhân bạch biến từ một phòng khám da liễu ở Chandigarh, Ấn Độ, từ tháng 6 năm 2018 đến tháng 6 năm 2019. Những bệnh nhân có ít nhất 3 mảng bạch biến trong cùng một vùng giải phẫu đã tham gia nghiên cứu điều trị NCES.
Bệnh nhân đã trải qua 3 phương pháp chuẩn bị tại chỗ trên ít nhất 3 tổn thương riêng biệt trước NCES: mài mòn da, cryoblister và kim lăn dermaroller.
Sau NCES, những người tham gia được đánh giá điều trị ở tuần thứ 4, 8 và 12 sau quy trình. Kết quả chính thu được là tái tạo sắc tố tốt, phù hợp vị trí, màu sắc và có được sự hài lòng của bệnh nhân.
Nhóm nghiên cứu bao gồm 36 bệnh nhân, trong đó 22 bệnh nhân là phụ nữ. Tuổi trung bình khi là 28,33 (± 9,4) tuổi; thời gian mắc bệnh trung bình là 10,06 (± 5,3) tuổi.
Diện tích bề mặt trung bình được điều trị trên mỗi bệnh nhân có thể so sánh giữa 3 phương pháp chuẩn bị là: 3,7 (± 1,4) cm2 với mài mòn da; 3,5 (± 1,2) cm2 với cryoblister; và 3,1 (± 1,4) cm2 với kim lăn dermaroller.
Ở tuần thứ 12, mài mòn da và cryoblister có hiệu quả tương đương về mức độ tái tạo sắc tố. Cụ thể, 55,6% và 47,2% tổn thương được điều trị bằng mài mòn da và cryoblister đã đạt được mức tái tạo sắc tố hơn 75%, tương ứng (P = 0,63).
Ngoài ra, điểm hài lòng của bệnh nhân là tương tự đối với các tổn thương được điều trị bằng mài mòn da và các tổn thương được điều trị bằng cryoblister lần lượt là 20,2 ± 9,6 so với 19,9 ± 7,9 trên 30,0; (P = 0,194).
Tuy nhiên, mài mòn da có tốc độ nhanh vượt trội so với croblister (65% so với 32,5% tái tạo sắc tố sau 4 tuần; P = 0,04) và phù hợp màu sắc (47,2% so với 19,4%; P = 0,004). Bên cạnh đó, tăng sắc tố được quan sát thấy ở 72,2% các bản vá được chuẩn bị bằng cryoblister, so với chỉ 33,3% các bản vá chuẩn bị bằng mài mòn da.
Kim lăn dermaroller có kết quả tái tạo sắc tố chậm, phù hợp màu sắc kém hơn so với cả mài mòn da và cryoblister. Dựa trên những kết quả này, phương pháp mài mòn da và cryoblister có hiệu quả như nhau đối với việc tái tạo sắc tố và sự hài lòng của bệnh nhân.
Tuy nhiên, cryoblister có thể dẫn đến sự tái tạo sắc tố cao hơn. Kim lăn dermaroller có kết quả kém hơn so với 2 phương pháp còn lại.
Các nhà nghiên cứu nói rằng vẫn còn nhiều hạn chế do nghiên cứu cỡ mẫu nhỏ và thời gian theo dõi ngắn. Nghiên cứu sâu hơn là cần thiết để làm rõ hơn kết quả của các phương pháp chuẩn bị vị trí tiếp nhận khác nhau.
Các nhà điều tra viết: “Nghiên cứu này cho thấy cả mài mòn da và cryoblister đều có hiệu quả như nhau trong việc chuẩn bị các bản vá bạch biến trước NCES, tạo ra sự tái tạo sắc tố nhanh chóng (<12 tuần) với màu sắc phù hợp ngay cả ở những vùng khó điều trị”.
Do đó, ở những bệnh nhân bạch biến ổn định, có thể sử dụng cả mài mòn da và cryoblister để chuẩn bị các vị trí tiếp nhận trong NCES.”.