Sùi mào gà sinh dục là bệnh lây lan qua đường tình dục, xuất hiện ở cả đàn ông lẫn đàn bà và trẻ nhỏ do người mẹ mắc bệnh truyền cho trong bối cảnh quan hệ tình dục không an toàn.
Bệnh sùi mào gà, nam dễ phát hiện hơn nữ
Sùi mào gà hay mụn cóc sinh dục (Genital wart) là một bệnh lan truyền qua quan hệ tình dục hay qua đường tình dục (STI). Gặp ở cả nam lẫn nữ giới, thời gian ủ bệnh từ 2-9 tháng, phát triển theo từng chu kỳ, mỗi giai đoạn có các biểu hiện khác nhau.
Theo các chuyên gia, biểu hiện của sùi mào gà ở nam giới dễ phát hiện hơn so với nữ giới, nếu được điều trị sớm sẽ mang lại hiệu quả cao hơn. Còn ở nữ giới, bệnh thường có diễn biến âm thầm, chỉ khi bệnh nặng mới phát hiện ra.
Các nốt sùi dạng mào gà dễ bị cọ xát khi quan hệ tình dục hay các tiếp xúc khác. Từ đây nó gây chảy máu, nhiễm trùng và tổn thương tại bộ phận sinh dục.
Thủ phạm là do virus Human papilloma (HPV) gây ra. Hầu hết những người nhiễm HPV không có biểu hiện lâm sàng, tỷ lệ có triệu chứng chỉ khoảng 1-2%. HPV thuộc nhóm có DNA, nhân lên trong tế bào thượng bì.
Có ít nhất 35 type HPV gây bệnh, type 6 và 11 chiếm tới 90%. Các type 16, 18, 31, 33 và 35 có thể gây loạn sản tế bào và gây ra bệnh ung thư. Ngoài ra, các yếu tố chống lưng cho HPV là nhiều bạn tình, mắc các bệnh STI khác.
HPV xâm nhập vào niêm mạc sinh dục qua các tiếp xúc trực tiếp ở thượng bì. Nó cũng có thể lây truyền cho trẻ sơ sinh qua đường sinh dục của mẹ khi sinh, gây u nhú ở thanh quản.
Chẩn đoán
Phần lớn những biểu hiện của sùi mào gà không khó phát hiện bằng mắt, nhưng do chủ quan, dễ nhầm lẫn với bệnh khác, kết hợp với tâm lý ngại khám nên đa số khi khám đã vào giai đoạn nặng.
Nếu ở nam giới bề mặt các nốt sùi ẩm ướt. Đám sùi dễ bị chảy máu và tổn thương. Tại thân dương vật xuất hiện các mụn mọc đơn lẻ. Mụn nhô cao như những nhú gai, màu hồng, có chân hoặc cuống.
Các nốt mụn không gây cảm giác ngứa ngáy, đau hay khó chịu, tăng dần rồi liên kết với nhau thành các mảng to. Đường kính khoảng vài cm, trông như mào gà hay bông súp lơ. Các nốt sùi lây lan ra vùng dưới bìu, xung quanh lỗ hậu môn sẽ xuất hiện biến chứng.
Một số trường hợp nốt sùi có thể to như nắm tay, tiết ra dịch và máu có mùi hôi tanh khó chịu.
Ở nữ giới, do cấu tạo cơ quan sinh dục phức tạp, khó phát hiện và điều trị hơn. Một số biểu hiện để nhận biết ở nữ giới là xuất hiện các u nhú màu hồng tươi hoặc trắng đục.
Các nốt thường xuất hiện trên môi lớn, môi bé, âm đạo, khu vực âm hộ, lỗ hậu môn, lỗ tiểu sẽ xuất hiện các biểu hiện. Tầng sinh môn, màng trinh, cổ tử cung, đều có nốt sùi mào gà… Phần lớn, mọc tập trung thành mảng lớn, không gây đau hay ngứa nhưng dễ bị chảy máu.
Chìa khóa của việc chẩn đoán đối với cả hai giới là kiểm tra cẩn thận sinh dục ngoài bằng nguồn sáng mạnh. Sử dụng kính lúp để phát hiện các thương tổn nhỏ. Riêng ở phụ nữ, 25% có tổn thương ở cổ tử cung hoặc âm đạo, trên 50% tổn thương dẹt hoặc có u tân sản trong biểu mô cổ tử cung.
Khoảng 1/3 có u tân sản ở âm hộ có đồng thời u tân sản ở cổ tử cung và/hoặc âm đạo. Cũng cần chẩn đoán phân biệt sùi mào gà sinh dục với các thương tổn sẩn khác nhơ u mềm treo, sẩn ngọc quy đầu, các u tuyến bã, nốt ruồi, u mềm lây, bệnh Crohn, dày sừng da mỡ, liken phẳng, liken nitidus, sẩn giang mai… hay ung thư tế bào gai do HPV. Nếu chẩn đoán chưa rõ ràng thì nên làm sinh thiết.
Điều trị
Nguyên tắc chung, xét nghiệm phát hiện HPV và định chủng virus, khám nghiệm các bệnh lây truyền qua đường tình dục khác. Khám và điều trị cả bạn tình đồng thời. Cũng phải nói thêm rằng, điều trị sùi mào gà không tự chữa dứt virus.
Hầu hết các mụn cóc sinh dục sẽ tự khỏi mà không cần điều trị trong vòng 18 đến 24 tháng. Có một số phương pháp có sẵn để điều trị tùy thuộc vào vị trí và tính chất của mụn sùi, cũng như bệnh của từng cá nhân.
Các thuốc điều trị được phân làm hai loại, một là loại người bệnh tự bôi như Podophylotoxin 0,5% dạng dung dịch hoặc kem imiquimod 5% Hai loại thuốc này không sử dụng bôi thương tổn ở quanh hậu môn, trực tràng, niệu đạo, âm đạo và cổ tử cung.
Hai là điều trị tại cơ sở y tế dùng podophyllin (thuốc bôi), trichloroacetic (TCA) hoặc bichloroacetic (BCA) 80-90% được dùng bôi cho các thương tổn nhỏ, ẩm ướt tối đa 6 tuần.Các phương pháp điều trị khác bao gồm nạo thương tổn, phẫu thuật cắt bỏ thương tổn, phẫu thuật điện, laser, tiêm interferon hoặc 5-fluorouracin.
Các phẫu thuật đơn giản bằng dao, kéo hoặc laser CO2, đốt điện cần phải gây tê. Đốt điện chống chỉ định cho người bệnh mắc máy tạo nhịp tim, thương tổn ở gần hậu môn. Nếu sau đợt điều trị 6 tuần thất bại, cần tư vấn để chuyển đổi cách điều trị theo phác đồ chỉ định của bác sĩ điều trị.