Bệnh Behçet là một chứng rối loạn không rõ nguyên nhân, hiếm gặp ở Hoa Kỳ và thường có tỷ lệ mắc bệnh cao hơn ở các khu vực Đông Địa Trung Hải và Trung Đông.
Bệnh Behçet có đặc điểm chung với bệnh vẩy nến ở chỗ đều là bệnh viêm da mãn tính, hay tái phát kèm theo các bệnh liên quan đến khớp cũng như các biểu hiện toàn thân khác. Mặc dù có những điểm tương đồng này, người ta vẫn chưa biết liệu Behçet và vẩy nến có liên quan với nhau hay không.
Các nhà nghiên cứu đã tiến hành phân tích để xem xét mối liên hệ giữa bệnh Behçet và bệnh vẩy nến / PsA trong một nhóm lớn bệnh nhân trên cơ sở dữ liệu của Bảo hiểm Y tế Hàn Quốc từ năm 2002 đến 2015.
Các tiêu chuẩn sau đây được sử dụng để chọn bệnh nhân từ cơ sở dữ liệu, bao gồm 1.113.656 cá nhân đã đăng ký:
* Nhóm bệnh Behçet (n = 2230): bệnh nhân mắc bệnh Behçet với ít nhất 2 lần khám liên tiếp trong vòng 6 tháng và được ghi nhận pathergy test.
* Nhóm bệnh vẩy nến (n = 17,362): bệnh nhân mắc bệnh vẩy nến với ít nhất 2 lần khám liên tiếp trong vòng 6 tháng và được kê đơn thuốc bôi tại chỗ, liệu pháp ánh sáng hoặc thuốc uống trong ít nhất 3 tháng liên tục.
* Nhóm viêm khớp vảy nến PsA (n = 3664): bệnh nhân bị PsA ít nhất 2 lần khám liên tiếp, mỗi lần khám cách nhau ít nhất 6 tháng; với xét nghiệm kháng thể hoặc HLA-B27; hoặc được điều trị bằng DMARDs.
Các nhà nghiên cứu đã xác định mối quan hệ thống kê giữa bệnh Behçet và bệnh vẩy nến / PsA bằng cách sử dụng phân tích hồi quy logistic nhị phân và chi- square , được điều chỉnh theo giới tính, tuổi và mức thu nhập tổng.
Kết quả cho thấy những bệnh nhân mắc bệnh Behçet có nguy cơ được chẩn đoán mắc bệnh vẩy nến cao hơn khoảng 3 lần ([aOR], 2,36; KTC 95%, 1,91-2,93; P <0,001) và gấp đôi khả năng được chẩn đoán mắc PsA (aOR, 2,19; KTC 95%, 1,42-3,38; P <0,001).
Ngoài ra, nam giới (aOR, 1,19; KTC 95%, 1,16-1,23; P <0,001) và cá nhân từ 65 tuổi trở lên (aOR, 1,51; KTC 95%, 1,43-1,59; P <0,001) bị vẩy nến có nhiều khả năng mắc bệnh Behçet. Mặt khác, so với nam giới bị PsA, phụ nữ bị PsA có nguy cơ mắc bệnh Behçet cao hơn (aOR, 2,02; KTC 95%, 1,88-2,16; P <0,001).
Như trong trường hợp của nhóm bệnh vẩy nến, những bệnh nhân lớn tuổi mắc bệnh Behçet được quan sát thấy có nguy cơ mắc PsA cao hơn (aOR, 3,13; 95% CI, 2,90-3,40; P <0,001)
Các nhà nghiên cứu cũng ghi nhận mối liên quan giữa chỉ số khối cơ thể (BMI) và nguy cơ mắc bệnh Behçet; bệnh nhân có BMI từ 30 đến 35 có aOR là 1,24 (KTC 95%, 1,12-1,38; P <0,001)
Các hạn chế của nghiên cứu bao gồm việc thiếu thông tin về mức độ nghiêm trọng của bệnh hoặc các nhóm lâm sàng,sự sai số tiềm ẩn trong nhóm vì dữ liệu được lấy từ hồ sơ bệnh viện và lượng mẫu nhỏ bệnh nhân bị PsA (n = 21) cũng bị ảnh hưởng bởi Behçet.
Các nhà nghiên cứu viết: “Tóm lại, nghiên cứu này đã hỗ trợ sự suy đoán lâu nay về mối liên hệ miễn dịch tiềm ẩn giữa Behçet và vẩy nến với bằng chứng đáng tin cậy dựa trên dân số. Các nghiên cứu cơ chế sâu hơn sẽ được tiến hành để giúp điều trị hiệu quả .”