Theo dữ liệu phân tích đăng trên tạp chí Dị ứng và Miễn dịch Lâm sàng, những bệnh nhân vảy nến từ trung bình đến nặng, nhiễm virus gây hội chứng hô hấp cấp tính nặng (SARS-CoV-2) hay còn gọi là COVID-19, đang dùng thuốc sinh học có nguy cơ nhập viện vì COVID-19 thấp hơn các bệnh nhân không dùng thuốc sinh học.
Số liệu được phân tích trong nghiên cứu này trích xuất từ 2 nguồn là Trung tâm đăng kí dữ liệu toàn cầu về dịch tễ, liệu pháp và kết cục của việc nhiễm COVID-19 trên bệnh nhân Vảy nến (PsoProtect) và Hệ thống đăng kí PsoProtectMe, nơi bệnh nhân tự báo cáo về tình trạng của mình.
PsoProtect cung cấp các dữ liệu về chẩn đoán được báo cáo bởi các bác sĩ lâm sàng về các ca bệnh vảy nến đang nghi ngờ hoặc đã được khẳng định nhiễm COVID-19, còn PsoProtectMe cung cấp các dữ liệu về các hành vi giúp giảm nguy cơ.
Nguồn báo cáo từ các bác sĩ tổng hợp dữ liệu từ 374 bệnh nhân bệnh vảy nến đang nghi ngờ hay đã được khẳng định nhiễm COVID-19 trên 25 quốc gia. Khoảng 71% bệnh nhân trong số này đang dùng thuốc sinh học, 18% dùng thuốc không phải tác nhân sinh học và 10% không dùng đến các liệu pháp toàn thân để điều trị vảy nến. Hầu hết bệnh nhân (93%) đều hồi phục hoàn toàn sau khi nhiễm COVID-19. Có 77 (21%) bệnh nhân nhập viện và 9 (2%) bệnh nhân tử vong.
Nguy cơ nhập viện tăng lên liên quan đến tình trạng lớn tuổi (OR đã hiệu chỉnh đa biến là 1,59 cho mỗi 10 năm với khoảng tin cậy 95% dao động từ 1,19 đến 2,13%), giới tính nam (OR là 2,51 với khoảng tin cậy 95% dao động từ 1,23 đến 5,12), chủng tộc da màu (OR là 3,15 với khoảng tin cậy 95% dao động từ 1,24 đến 8,03) và đang mắc bệnh phổi mạn tính (OR là 3,87 với khoảng tin cậy 95% dao động từ 1,52 đến 9,83).
Dựa vào dữ liệu trên hệ thống đăng kí PsoProtect, các bệnh nhân không dùng liệu pháp sinh học toàn thân thường phải nhập viện hơn các bệnh nhân dùng tác nhân sinh học (OR là 2,84 với khoảng tin cậy 95% dao động từ 1,31 đến 6,18).
Ở hệ thống đăng kí PsoProtectMe có 1626 bệnh nhân đến từ 48 quốc gia tự cung cấp về các dữ liệu của họ. Qua phân tích các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng các bệnh nhân không dùng liệu pháp sinh học toàn thân có tỉ lệ cách li thấp hơn những bệnh nhân đang dùng tác nhân sinh học (OR là 0,68 với khoảng tin cậy 95% dao động từ 0,50 đến 0,94).
Hạn chế của nghiên cứu này là thiếu khả năng khái quát hóa vì chỉ thu thập thông tin từ các bệnh nhân vảy nến mức độ từ trung bình đến nặng và đa số bệnh nhân đều đến từ Tây Ban Nha, Ý và Vương quốc Anh.
Các tác giả nhấn mạnh rằng cần thêm nhiều dữ liệu nữa để khẳng định những nhận định này trước khi khuyến nghị đưa ra bất kì thay đổi nào trong thực hành lâm sàng và cũng cần nghiên cứu thêm về sự khác biệt trong tỉ lệ nhập viện của các loại tác nhân sinh học khác nhau.