Theo dữ liệu nghiên cứu được công bố trên Cẩm nang Điều trị Da liễu (Dermatologic Therapies), sử dụng liệu pháp sinh học điều trị bệnh vảy nến ở bệnh nhân đang mang thai không liên quan đến những hệ quả bất lợi đối với trẻ sơ sinh. Mặc dù vậy, các nhà nghiên cứu khuyến cáo rằng các tác nhân sinh học nên được kê đơn một cách thận trọng trong thời kỳ mang thai, đặc biệt nếu đã qua tam cá nguyệt đầu tiên.
Dữ liệu dù hạn chế cũng cho thấy mối quan hệ giữa việc sử dụng liệu pháp sinh học đối với điều trị bệnh vảy nến và kết cục thai kì. Các nhà nghiên cứu đã tìm cách đánh giá tác động của việc phơi nhiễm sinh học trong thai kỳ.
Đây là một loạt trường hợp hồi cứu đánh giá những bệnh nhân bị bệnh vảy nến được điều trị bằng liệu pháp sinh học trong thời kỳ mang thai từ năm 2006 đến năm 2019. Hồ sơ được lựa chọn từ một Trung tâm Khoa học trực thuộc Đại học ở Thổ Nhĩ Kỳ. Dữ liệu nhân khẩu học và lâm sàng được xác định chắc chắn bằng việc xem xét hồ sơ y tế.
Các nhà nghiên cứu đã thu thập dữ liệu về kết quả lâu dài của những đứa trẻ bị phơi nhiễm từ các bà mẹ trong các lần tái khám hoặc phỏng vấn qua điện thoại. Những vấn đề cần quan tâm ở những trẻ em này bao gồm quỹ đạo tăng trưởng và phát triển, tiền sử bệnh nhiễm trùng, tiền sử nhập viện, dị ứng và bệnh vẩy nến.
Kết cục của thai kỳ cũng được đánh giá, bao gồm phương thức sinh, các biến chứng khi sinh, sự trưởng thành của trẻ sơ sinh và các kết cục bất lợi. Các nhà nghiên cứu cũng tiến hành phân tích tài liệu về các nghiên cứu đánh giá kết quả lâu dài của những bà mẹ và trẻ em bị phơi nhiễm.
Chuỗi trường hợp bao gồm dữ liệu từ 9 lần mang thai ở 6 phụ nữ được điều trị bằng liệu pháp sinh học cho bệnh vảy nến. Tuổi trung bình của những người tham gia là 33 tuổi (24 – 40 tuổi); thời gian mắc bệnh trung bình là 8,5 năm (3 – 23 năm). Tại thời điểm thụ thai, thời gian trung bình của điều trị bằng liệu pháp sinh học là 30 tháng (phạm vi, 6 tuần – 50 tháng).
Tất cả các bệnh nhân đều thuyên giảm về mặt lâm sàng và ngừng điều trị bằng sinh học tại thời điểm được chẩn đoán mang thai. Tuy nhiên, 1 bệnh nhân đã phát triển bệnh vảy nến mủ toàn thể khi đang mang thai và được điều trị bằng liệu pháp sinh học lại. Không có bệnh nhân nào báo cáo về bất kỳ tác dụng phụ liên quan đến liệu pháp sinh học.
Tổng cộng, 7 lần mang thai đều sinh ra những đứa trẻ đủ tháng, khỏe mạnh. Một lần mang thai kết thúc bằng phá thai tự chọn, và một lần được chẩn đoán là mang thai ngoài tử cung ống dẫn trứng bên phải và sau đó lựa chọn chấm dứt thai kỳ. Thời gian theo dõi sau sinh dao động từ 14 tháng đến 13 năm.
Tất cả trẻ em đều tăng trưởng và phát triển bình thường. Chỉ có 1 trẻ sơ sinh bị nhiễm trùng cần điều trị bằng thuốc kháng sinh trong năm đầu đời, trẻ sơ sinh này đã tiếp xúc với ustekinumab trong tam cá nguyệt đầu. Không ai trong số trẻ em phơi nhiễm có biểu hiện dị ứng, khối u ác tính hoặc bệnh vảy nến.
Không có mối liên hệ rõ ràng nào được xác định giữa việc trẻ sơ sinh phơi nhiễm với liệu pháp sinh học và các kết quả bất lợi cho trẻ sơ sinh hoặc thai nghén. Những kết quả này đã chứng thực dữ liệu và cho thấy không có mối quan hệ như vậy giữa các biến số nghiên cứu. Trong 1 nghiên cứu hồi cứu đánh giá kết quả ở những trẻ em phơi nhiễm thì tăng trưởng và phát triển tâm sinh lý là bình thường.
Hạn chế đối với nghiên cứu này là thiết kế hồi cứu nên cỡ mẫu tương đối nhỏ gồm 6 phụ nữ và thiếu các tài liệu hiện có về chủ đề này. Các nhà nghiên cứu tin rằng cần phải nghiên cứu thêm để hiểu rõ hơn về những rủi ro liên quan đến việc sử dụng liệu pháp sinh học trong thời kỳ mang thai.
Các nhà nghiên cứu kết luận rằng cho đến khi có một bức tranh rõ ràng hơn, nên dành riêng cho những bệnh nhân có nhu cầu cao, hoặc tiến trình bệnh tiến triển không tốt. Họ nói thêm rằng “sử dụng liệu pháp sinh học trong thai kỳ đòi hỏi phải đánh giá cẩn thận tỷ lệ rủi ro/lợi ích trên cơ sở từng trường hợp, vì tác động của nó đối với sự phát triển lâu dài của trẻ sơ sinh và trẻ em bị phơi nhiễm vẫn chưa được làm sáng tỏ.”