Theo một nghiên cứu, tuy huyết tương giàu tiểu cầu (PRP- Platelet rich plasma) không mang lại hiệu quả rõ rệt trong điều trị rụng tóc từng vùng (alopecia areata), nhưng một vài thông số về phản ứng miễn dịch đã được cải thiện sau khi điều trị.
Bác sĩ Vishal Gupta, khoa da liễu Viện nghiên cứu Y khoa Ấn Độ cho biết: Huyết tương giàu tiểu cầu cho thấy hứa hẹn trong việc điều trị rụng tóc từng vùng.
Mục đích của nghiên cứu đối chứng ngẫu nhiên là đánh giá tác động của phương pháp điều trị này đối với sự phát triển của nang tóc. Ngoài ra nghiên cứu còn xem xét sự sản xuất cytokin của tế bào T ở vùng tổn thương. Nghiên cứu thực hiện trong nhóm 27 bệnh nhân.
Tiêu chí đủ điều kiện bao gồm điểm SALT (Severity of Alopecia Tool) từ 25% trở lên.
Phác đồ điều trị gồm ba lần tiêm trong da. Huyết tương giàu tiểu cầu hoặc nước muối sinh lý sẽ được tiêm vào mỗi tháng ở các mảng rụng tóc hai bên da đầu của bệnh nhân. Lần theo dõi cuối cùng diễn ra sau lần tiêm cuối 3 tháng. Sau đó, các nhà nghiên cứu so sánh sự biểu hiện mRNA cytokine ở vùng tổn thương trước và sau khi điều trị.
Kết quả cho thấy không có sự thay đổi đáng kể về điểm SALT trung bình ở cả 2 nhóm tại bất kỳ lần khám nào. Tuy nhiên, ở lần đánh giá cuối cùng, tỷ lệ phần trăm giảm trung bình của điểm SALT ở nhóm điều trị là 9,05% ± 36,48% so với 4,99% ± 33,88% ở nhóm giả dược (P = 0,049). Điểm SALT giảm 50% xảy ra ở 14,8% bệnh nhân trong nhóm điều trị và 7,4% ở nhóm giả dược.
Theo kết quả nghiên cứu, đã quan sát thấy sự giảm đáng kể trong biểu hiện mRNA IFN-gamma (P = 0,001) và IL-17(P = 0,009) trong nhóm điều trị; trong khi sự gia tăng đáng kể được báo cáo đối với IL-10(P = 0,049 ) và FOXP3 (P = 0,011) sau khi điều trị huyết tương giàu tiểu cầu.
Các kết quả khác cho thấy 22,2% người bệnh có tóc mọc lại tương đương ở cả hai bên da đầu, bất kể điều trị bằng huyết tương hay nước muối. Trong khi 33,3% người bệnh cho thấy sự cải thiện ở bên điều trị bằng huyết tương và 11,1% cải thiện ở bên giả dược.
Ở cả 2 bên, 14,8% người bệnh không có tóc mọc lại và 18,5% cho biết tình trạng rụng tóc ngày càng nặng hơn.
Hạn chế của nghiên cứu là kích thước mẫu nhỏ và thời gian theo dõi ngắn.