Theo nghiên cứu được đăng trên Nghiên cứu về Đái tháo đường và Thực hành Lâm sàng (Diabetes Research and Clinical Practice), Chỉ số Nguy cơ dựa trên Xét nghiệm của Viêm cân mạc Hoại tử (Laboratory Risk Indicator for Necrotizing Fasciitis – LRINEC) có thể được xem là dấu chứng âm của nhiễm trùng mô mềm hoại tử ở những bệnh nhân đái tháo đường có nhiễm trùng chi dưới.
Nghiên cứu đánh giá dựa trên dữ liệu về CRP, số lượng bạch cầu, hemoglobin, natri, creatinine, chỉ số đường huyết và LRINEC của 69 bệnh nhân đái tháo đường type 2 nhập khoa cấp cứu từ tháng 9/2017 đến tháng 10/2018 vì nhiễm trùng chi dưới, cần can thiệp phẫu thuật.
Trong các bệnh nhân tham gia nghiên cứu, có 4 người (5,8%) được chẩn đoán là nhiễm trùng mô mềm hoại tử, trong đó có 3 người nhiễm từ 2 vi khuẩn trở lên và 1 người nhiễm liên cầu khuẩn tán huyết beta nhóm A. Một nửa số ca nhiễm trùng mô mềm hoại tử có tình trạng hoại tử rõ ràng trên lâm sàng. Trong số đó, có 2 bệnh nhân có hiện tượng tràn khí dưới da quan sát được trên phim X quang và 1 bệnh nhân có tràn khí mô mềm trên kết quả CT scan.
Các nhà nghiên cứu nhận ra rằng có mối tương quan giữa LRINEC và nhiễm trùng mô mềm hoại tử (P=0,01) với độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên đoán dương, giá trị tiên đoán âm lần lượt là 100%, 69%, 16,6% và 100%. Ngoài ra, tình trạng nhiễm trùng mô mềm hoại tử còn có tương quan với nồng độ CRP (OR=1,01; P=0,02, khoảng tin cậy 95% dao động từ 1,002 đến 1,23) và số lượng bạch cầu ((OR=1,34; P<0,01, khoảng tin cậy 95% dao động từ 1,1 đến 1,17).
Các tác giả cho rằng “LRINEC có thể được sử dụng như dấu chứng âm của tình trạng nhiễm trùng mô mềm hoại tử (NSTI) trong khi nồng độ CRP và số lượng bạch cầu có thể có giá trị tiên lượng trên từng cá thể. Dù vậy, chúng tôi vẫn khuyến nghị rằng các bác sĩ luôn nên tìm dấu hiệu NSTI trên lâm sàng với những bệnh nhân đái tháo đường vì các chỉ số xét nghiệm có thể không đặc hiệu.”
Giới hạn của nghiên cứu là chỉ nghiên cứu trên 1 số lượng nhỏ bệnh nhân nhiễm trùng mô mềm hoại tử.
Các nhà nghiên cứu phát biểu rằng “Không thể loại trừ NSTI khi không thấy hiện tượng tràn khí trên phim XQ. Các khảo sát hình ảnh cao cấp hơn cho kết nhạy hơn với NSTI nhưng các khảo sát này lại rất tốt thời gian và làm chậm trễ quá trình phẫu thuật, làm tăng tỉ lệ mắc bệnh và tử vong.
Nghiên cứu này cho thấy, LRINEC có thể hữu ích trong việc loại trừ chẩn đoán NSTI ở nhóm bệnh nhân được khảo sát, đặc biệt là đối với những bệnh nhân có chỉ số CRP và số lượng bạch cầu bình thường”.