Các phương pháp điều trị vảy nến bằng thuốc sinh học trên phụ nữ có thai và cho con bú cho tới nay vẫn còn hạn chế, cần nhiều nghiên cứu hơn nữa trong tương lai để khẳng định về tính an toàn và hiệu quả của thuốc.
Phụ nữ có thai và cho con bú
Cho tới hiện tại, các bằng chứng về điều trị vảy nến bằng thuốc sinh học cho nhóm đối tượng đặc biệt này có thể tóm gọn lại như sau:
- Các thuốc thuộc nhóm ức chế TNF – alpha (như adalimumab, etanercept) hiện tại được cho rằng khá an toàn trong thai kì, mặc dù các nhà khoa học vẫn thấy rằng thuốc vẫn có thể đi xuyên qua hàng rào nhau thai.
Tuy nhiên có một loại thuốc ức chế TNF-alpha duy nhất được kiểm chứng qua nghiên cứu trên lâm sàng chứng minh độ an toàn trên phụ nữ có thai và cho con bú, đó là Certolizumab pegol (CZP). - Các thuốc như ustekinumab, secukinumab tới hiện nay vẫn chưa đủ bằng chứng để chứng minh về độ an toàn trên phụ nữ có thai, vì vậy không nên sử dụng những thuốc này trong thai kì.
- Đối với nhóm phụ nữ đang cho con bú, các nhà khoa học cho rằng thuốc sinh học có thể tiếp tục được sử dụng để điều trị vảy nến.
Tiêm vắc-xin khi sử dụng thuốc sinh học
Các loại vắc-xin có thể tiêm ngừa khi đang sử dụng thuốc sinh học gồm:
- Vắc-xin phế cầu: nên được tiêm ngừa cho tất cả các bệnh nhân đang sử dụng thuốc sinh học có độ tuổi từ 19 tuổi trở lên
- Vắc-xin cúm bất hoạt: nên tiêm ngừa cho tất cả các bệnh nhân đang điều trị thuốc sinh học
- Vắc-xin thủy đậu tái tổ hợp: nên tiêm ngừa (đủ 2 mũi) cho tất cả bệnh nhân đang sử dụng thuốc sinh học có độ tuổi từ 19 tuổi trở lên
- Một số vắc-xin bất hoạt khác: vắc-xin Hib tuýp b, viêm gan siêu vi A, viêm gan siêu vi B, vắc xin ngừa HPV, uốn ván, ho gà.
- Vắc-xin COVID-19: có thể tiêm ngừa vắc-xin của Moderna và Pfizer.
Với người bệnh vảy nến có bệnh nền
- Tăng huyết áp & bệnh tim mạch khác: các nghiên cứu hiện nay cho thấy thuốc sinh học điều trị vảy nến có thể sử dụng an toàn trên nhóm đối tượng này, đồng thời làm giảm đáng kể các biến cố tim mạch trên bệnh nhân vảy nến.
- Đái tháo đường: thuốc sinh học không chỉ an toàn trên bệnh nhân đái tháo đường mà còn cải thiện bệnh lý này thông qua khả năng làm giảm đề kháng insulin.
- Suy thận: các dữ kiện hiện tại cho thấy các thuốc sinh học điều trị vảy nến không ảnh hưởng tới chức năng của thận, vì vậy có thể sử dụng an toàn cho nhóm đối tượng này.
- Suy gan: đa phần các thuốc sinh học điều trị vảy nến hiện tại (trừ infliximab) được cho rằng an toàn cho bệnh nhân suy gan, thậm chí một số thuốc còn cải thiện tình trạng suy gan của bệnh nhân.
Đối với những bệnh nhân đồng mắc với viêm gan siêu vi B hay viêm gan siêu vi C, cần xét nghiệm theo dõi tải lượng virus, tầm soát chức năng gan kĩ lưỡng và điều trị với liệu pháp kháng virus trước khi điều trị vảy nến bằng thuốc sinh học. - Đối với tất cả bệnh nhân vảy nến có các bệnh lý kèm theo khác, người bệnh sẽ được hội chẩn với các chuyên khoa liên quan để theo dõi và quản lý quá trình điều trị.