Các yếu tố như tình trạng nội tiết tố, tuân thủ điều trị và sự ưng thuận của bệnh nhân đối với liệu pháp uống cũng có thể ảnh hưởng đến quyết định điều trị mụn trứng cá bắt đầu phác đồ điều trị toàn thân.
John S. Barbieri, MD, một bác sĩ da liễu và nhà dịch tễ học ở Philadelphia, Pennsylvania, đồng thời là đồng tác giả của một số nghiên cứu về mụn đã chia sẻ như vậy trên Cố vấn Da liễu (Dermatology Advisor).
Mức độ nghiêm trọng là yếu tố cân nhắc chính trong việc lựa chọn phương pháp điều trị mụn trứng cá. Các liệu pháp bôi tại chỗ thường là lựa chọn đầu tiên điều trị mụn trứng cá nhẹ đến trung bình, nhưng mụn trứng cá nặng thường liên quan đến nhiều cơ chế, gây khó khăn hơn trong việc điều trị.
Bốn cơ chế bệnh gây ra mụn trứng cá đã được xác định:
1) Sự mất cân bằng hormone, với việc tăng sản xuất androgen dẫn đến sản xuất quá nhiều bã nhờn.
2) Sự sừng hóa của các nang da tạo ra tắc nghẽn
3) Sự xâm nhập và phát triển của vi khuẩn Propionibacterium acnes (P acnes)
4) Các phản ứng trung gian gây viêm trong da
Các liệu pháp toàn thân đều tạo ra các tác dụng phụ nghiêm trọng hơn các liệu pháp tại chỗ, điều này có thể làm cho thời gian điều trị lâu hơn. Tiến sĩ Barbieri giải thích: “Bên cạnh isotretinoin (giúp thuyên giảm bệnh lâu dài) thì tất cả các phương pháp điều trị mụn chỉ có tác dụng khi bạn đang sử dụng chúng.
“Vì mụn trứng cá thường tồn tại ở độ tuổi thanh niên nên hầu hết bệnh nhân sẽ phải điều trị trong nhiều tháng đến nhiều năm (ví dụ: 40% và 20% nam giới báo cáo mụn trứng cá ở độ tuổi 20 và 30, và 50% và 35% phụ nữ báo cáo mụn trứng cá ở độ tuổi tương ứng là 20 và 30)”.
Một số nhóm thuốc hiện đang được sử dụng trong điều trị liệu pháp toàn thân cho mụn trứng cá, bao gồm thuốc kháng sinh, retinoid, thuốc tránh thai và corticosteroid. Kẽm sulfat, ibuprofen và clofazimine cũng có thể có hiệu quả. Các loại thuốc này hoạt động thông qua các cơ chế khác nhau, và không thuốc nào được chứng minh là liệu pháp lý tưởng cho tất cả bệnh nhân.
Thuốc kháng sinh
Thuốc kháng sinh là phương pháp điều trị toàn thân được sử dụng phổ biến nhất cho mụn trứng cá bị viêm và lan rộng có mức độ trung bình đến nặng. Các nhóm thuốc kháng sinh được sử dụng phổ biến nhất bao gồm macrolid, fluoroquinolon, tetracycline và co-trimoxazole.
Thuốc kháng sinh có hiệu quả trong việc ngăn chặn sự xâm nhập vi khuẩn Pacnes, nhưng việc sử dụng chúng đã giảm trong những năm gần đây do có nhiều tác dụng phụ nghiêm trọng tiềm ẩn và nguy cơ kháng thuốc. Mặc dù được sử dụng với liều lượng thấp để điều trị mụn trứng cá nhưng việc điều trị kháng sinh thường kéo dài, điều đó góp phần phá vỡ hệ vi khuẩn và gây ra sự đề kháng của vi khuẩn, ảnh hưởng đến hệ sinh vật trong da.
Barbieri và cộng sự cũng ghi nhận nguy cơ gia tăng ung thư liên quan đến nhóm thuốc tetracycline và một loạt các ca bệnh nhiễm trùng hô hấp trên và viêm họng liên quan đến nhiều chất kháng khuẩn.
Các tác dụng ngoại ý ít nghiêm trọng hơn vẫn gây khó khăn cho bệnh nhân, bao gồm nhạy cảm ánh sáng khi sử dụng doxycycline, tăng bạch cầu ái toan, rối loạn tiền đình và tăng huyết áp nội sọ lành tính khi sử dụng minocycline và các triệu chứng tiêu hóa với cả hai. Vì những lý do đó, các nhóm thuốc khác được ưu tiên hơn khi điều trị toàn thân.
Spironolactone
Spironolactone, là steroid 17-lactone tổng hợp, là một liệu pháp nội tiết tố ngăn chặn hoạt động của thụ thể androgen khi được sử dụng ở liều lượng cao hơn, do đó ức chế sản xuất bã nhờn. Nó được coi là an toàn và hiệu quả trong điều trị mụn trứng cá nặng.
Tiến sĩ Barbieri cho biết: “Đối với cả nam và nữ, hormone đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của mụn trứng cá, đó là lý do tại sao mụn trứng cá bắt đầu ở tuổi dậy thì, khi lượng hormone tăng lên”. “Những hormone này dẫn đến tăng sản xuất dầu trên da, dẫn đến sự phát triển của mụn trứng cá. Spironolactone hoạt động bằng cách giảm sản xuất dầu trên da, đó là cách nó tác động đến mụn trứng cá. Gần đây chúng tôi đã tiến hành một nghiên cứu cho thấy nó có thể là một lựa chọn tốt hơn so với thuốc kháng sinh đường uống,để điều trị mụn trứng cá ở phụ nữ”.
Tác dụng ngoại ý của spironolactone bao gồm kinh nguyệt không đều, căng tức vú, chóng mặt, buồn nôn, nhức đầu, đa niệu và mệt mỏi. Spironolactone chỉ định cho phụ nữ mang thai bị xếp loại C, có nghĩa là phụ nữ nên được tư vấn để tránh mang thai trong khi dùng thuốc này. Vì nó ảnh hưởng điều tiết kali và có nguy cơ tăng kali huyết ở bệnh nhân suy thận, suy tim khi dùng với liều cao nhất 200 mg/ngày.
Thuốc uống tránh thai
Thuốc tránh thai đường uống làm thay đổi sự cân bằng nội tiết tố ở phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ bằng cách bổ sung estrogen và progestin vào mỗi chu kỳ kinh nguyệt. Cơ chế này cũng ngăn chặn sự gắn kết bình thường của testosterone tuần hoàn với thụ thể androgen. Kết quả là sự gia tăng mức testosterone trung bình từ 40% đến 50% cũng ngăn chặn việc sản xuất bã nhờn.
Tiến sĩ Barbieri cho biết: “Thuốc tránh thai kết hợp là một lựa chọn điều trị tuyệt vời cho phụ nữ bị mụn trứng cá. Ông nói: “Thậm chí có một số bằng chứng cho thấy chúng có thể có hiệu quả tương đương với thuốc kháng sinh uống. Bệnh nhân nên thảo luận với bác sĩ xem họ có phải là ứng cử viên để điều trị bằng thuốc tránh thai kết hợp hay không, và những loại thuốc này thường khá an toàn ở phụ nữ trẻ và khỏe mạnh”.
Sử dụng thuốc tránh thai có nguy cơ gây huyết khối tĩnh mạch, nhồi máu cơ tim và đột quỵ nhưng đồng thời cũng giảm nguy cơ suốt đời đối với bệnh viêm vùng chậu và ung thư buồng trứng, đại trực tràng và nội mạc tử cung.
Isotretinoin
Isotretinoin là một retinoid dạng uống được coi là liệu pháp điều trị toàn thân hiệu quả nhất cho mụn trứng cá. Harris và Cooper đã viết trong bài đánh giá năm 2017 của họ rằng: “Hiệu quả của isotretinoin là nhờ tác dụng nhắm vào tất cả bốn cơ chế bệnh gây ra sự phát triển của mụn trứng cá”, điều đó làm cho isotretionon trở thành liệu pháp duy nhất mang lại khả năng thuyên giảm lâu dài. Tiến sĩ Barbieri lưu ý rằng: “Ngoài ra, đối với những bệnh nhân bị sẹo mụn trứng cá, các phương pháp điều trị toàn thân bằng isotretinoin thường được sử dụng để giảm nguy cơ bị sẹo trong tương lai”.
Liều khởi đầu của isotretinoin nằm trong khoảng từ 0,2 mg/ngày đối với mụn trứng cá nhẹ và đến 0,5 mg/ngày đối với mụn trứng cá nặng, có thể được điều chỉnh lên đến 1 mg/ngày. Liều cao hơn có nhiều khả năng tạo ra sự thuyên giảm lâu dài nhưng đồng thời làm tăng tỷ lệ các tác dụng ngoại ý (khô niêm mạc, biến chứng ở mắt và đau cơ).
Kết luận rằng: “Các lựa chọn điều trị hiệu quả hơn và an toàn hơn là cần thiết trong điều trị mụn trứng cá” đã nói lên mối quan tâm ngày càng tăng đối với các loại thuốc bổ sung và thay thế trong điều trị mụn. Các chiến lược điều trị hiện tại cần nhắm vào nhiều cơ chế bệnh và mức độ thoải mái của bệnh nhân, đồng thời giảm nguy cơ các tác dụng phụ và kháng kháng sinh.
Tài liệu tham khảo
1. Fox L, Csongradi C, Aucamp M, du Plessis J, Gerber M. Phương thức điều trị mụn trứng cá. 2016.
2. Harris VR, Cooper AJ. Quản lý mụn trứng cá hiện nay. Med J Aust. 2017.
3. Collier CN, Harper JC, Cafardi JA, et al. Tỷ lệ mụn trứng cá ở người lớn từ 20 tuổi trở lên. J Am Acad Dermatol. 2008.
4. Barbieri JS, Spaccarelli N, Margolis DJ, James WD. Các phương pháp hạn chế sử dụng kháng sinh toàn thân trong mụn trứng cá: Các lựa chọn thay thế toàn thân, các liệu pháp điều trị tại chỗ mới, điều chỉnh chế độ ăn uống, điều trị bằng tia laser và ánh sáng. J Am Acad Dermatol. 2019.
5. Park H, Skopit S. Cân nhắc và theo dõi mức độ an toàn ở bệnh nhân được điều trị bằng thuốc trị mụn toàn thân. Dermatol Clin. 2016.
6. Barbieri JS, Choi JK, Mitra N, Margolis DJ. Tần suất chuyển đổi điều trị đối với spironolactone so với kháng sinh nhóm tetracycline uống cho phụ nữ bị mụn trứng cá: một nghiên cứu hồi cứu 2010-2016. J Thuốc Dermatol. 2018.
7. Harper JC. Sử dụng Thuốc tránh thai đường uống để kiểm soát mụn trứng cá: những cân nhắc thực tế trong thực tế. Dermatol Clin. 2016.