Bệnh nhân vảy nến mảng đáp ứng không đầy đủ với ustekinumab có thể chuyển sang dùng guselkumab dựa trên kết quả nghiên cứu được đăng trên tạp chí của hội da liễu châu Âu.
Các nhà nghiên cứu đã tiến hành một nghiên cứu đa trung tâm, hồi cứu bằng cách sử dụng dữ liệu được thu thập từ năm 2020 đến năm 2022. Những người tham gia (N=233; tuổi trung bình, 54,27 [SD, 13,25] tuổi; 56,12% nam giới) bị bệnh vảy nến mảng mạn tính không đáp ứng với liệu pháp ustekinumab đã được chuyển sang điều trị bằng guselkumab 100 mg ở tuần 0 và 4, và mỗi 8 tuần sau đó rồi đánh giá về kết quả.
Thất bại với Ustekinumab được xác định khi điểm chỉ số PASI ít nhất là 10 hoặc điểm PASI dưới 10 cộng với tổn thương ở lòng bàn tay hoặc lòng bàn chân, mặt hoặc da đầu, hoặc móng tay và/hoặc chỉ số chất lượng cuộc sống (DLQI) ) điểm tối thiểu là 5.
Trong số những người tham gia, 24,89% bị béo phì, thời gian mắc bệnh trung bình là 24,20 (SD, 13,40) năm, 68,24% bị tổn thương ở vùng khó điều trị, 21,03% bị viêm khớp vảy nến, 49,79% đồng mắc bệnh tim mạch chuyển hóa và 40,34% đã được điều trị với ít nhất 2 thuốc sinh học trước đó.
Vào tuần 16, 76,29% người tham gia đạt được mức cải thiện 75% về PASI (PASI75), 46,78% đạt mức cải thiện 90% về PASI (PASI90), 37,77% đạt mức cải thiện 100% về PASI (PASI100) và 77,68% đạt mức cải thiện điểm PASI tuyệt đối từ 2 trở xuống. Tỷ lệ đạt được những kết quả này tiếp tục cải thiện qua tuần 52 và 104.
Được phân tầng theo đặc điểm của bệnh nhân, điểm PASI trung bình ở tuần 52 (P = 0,002), đạt điểm PASI từ 2 trở xuống ở tuần 16 (P < 0,001) và 52 (P < 0,001) và đạt PASI75 ở tuần 52 (P = 0,002) phụ thuộc vào loại chỉ số khối cơ thể.
Đạt được PASI90 ở tuần 16 (P <0,001), PASI100 ở tuần 16 (P = 0,001) và PASI75 ở tuần 52 (P = 0,026) phụ thuộc vào sự hiện diện của tổn thương ở những vùng khó điều trị.
Đạt được PASI75 ở tuần 16 (P = 0,041) và điểm PASI từ 2 trở xuống ở tuần 16 (P = 0,025) và 52 (P = 0,022) phụ thuộc vào sự hiện diện của các bệnh chuyển hóa tim mạch. PASI trung bình ở tuần 16 (P = 0,006), đạt được PASI75 ở tuần 16 (P = 0,015) và điểm PASI từ 2 trở xuống ở tuần 16 (P = 0,006) phụ thuộc vào sự hiện diện của bệnh viêm khớp vảy nến. PASI trung bình ở tuần 16 (P = 0,023) phụ thuộc vào số lần phơi nhiễm với thuốc sinh học trước đó.
Trong phân tích đa biến, viêm khớp vảy nến có liên quan đến việc giảm khả năng đạt được PASI75 (tỷ suất chênh [OR], 0,39; P = 0,009) hoặc điểm PASI từ 2 trở xuống (OR, 0,34; P = 0,007) vào tuần 16. Các vùng khó điều trị có liên quan đến tỷ lệ đạt được PASI90 thấp hơn ở tuần 16 (OR, 0,38; P = 0,001).
Đạt được điểm PASI từ 2 trở xuống ở tuần 16 ít có khả năng xảy ra ở những người có cân nặng bình thường (OR, 0,20; P = 0,001) hoặc những người thừa cân (OR, 0,30; P = 0,008) so với những người thiếu cân. Những người béo phì ít có khả năng đạt được PASI75 (OR, 0,20; P = 0,022) hoặc điểm PASI từ 2 trở xuống (OR, 0,03; P = 0,008) ở tuần 52 so với những người thừa cân.
Tỷ lệ biến cố bất lợi thấp (3,86%), phổ biến nhất là phản ứng tại chỗ tiêm (1,29%) và nhức đầu (1,2%).
Hạn chế của nghiên cứu bao gồm lượng dữ liệu bị thiếu hoặc không đầy đủ.
Các nhà nghiên cứu kết luận: “Guselkumab được dung nạp tốt, vì không có phát hiện đáng kể nào về tính an toàn sau 2 năm điều trị. Cần có các nghiên cứu triển vọng lớn hơn và dài hơn cũng như phân tích hồi cứu cơ sở dữ liệu bệnh nhân để đánh giá thêm về hiệu quả và độ an toàn của guselkumab ở những bệnh nhân có trải nghiệm thuốc sinh học ngoài đời thực.”