Bất kể có đang được điều trị bằng hydroxychloroquine hay không, bệnh nhân bị SLE hoặc RA có độ dài QTc trung bình tương đương. Trong một nghiên cứu đoàn hệ lớn được báo cáo tại Hội nghị trực tuyến năm 2020 của Hội Thấp khớp học Hoa Kỳ (ACR), Hydroxychloroquine (HCQ) không liên quan đến kéo dài QTc ở những bệnh nhân điều trị bệnh lupus ban đỏ hệ thống (SLE) hoặc viêm khớp dạng thấp (RA).
Elizabeth Park, MD, một chuyên gia về Thấp khớp học tại Đại học Columbia, và các đồng nghiệp lưu ý, HCQ là một liệu pháp nền tảng cho SLE, và được sử dụng dưới dạng đơn trị liệu hoặc kết hợp với các loại thuốc điều trị thấp khớp kinh điển (DMARDs) khác cho viêm khớp dạng thấp (RA).
“Tuy nhiên, việc sử dụng nó trong điều trị COVID-19 đã làm dấy lên lo ngại về khả năng kéo dài QTc và tăng khả năng rối loạn nhịp tim”, Park và các đồng nghiệp nhận xét.
Để xác định mức độ liên quan của những mối lo ngại đó với việc sử dụng HCQ trong điều trị bệnh nhân SLE hoặc RA, Park và các đồng nghiệp đã tiến hành một nghiên cứu trên 681 bệnh nhân không mắc bệnh tim mạch, bao gồm 2 nhóm nghiên cứu đoàn hệ tương lai RA với điện tâm đồ (EKG) như một phần của thu thập dữ liệu nghiên cứu (n = 307) và một nhóm hồi cứu SLE (n = 374) với EKG được thực hiện như một phần của tiêu chuẩn chăm sóc.
Nhóm nghiên cứu đã phân tích mối liên quan giữa độ dài QTc và sử dụng HCQ, được điều chỉnh theo các đặc điểm cụ thể của bệnh và các yếu tố nguy cơ mắc bệnh tim mạch.
Park giải thích với HCPLive®: “Đối với nhóm đoàn hệ SLE, chúng tôi đã xem xét lại độ dài QTc và việc sử dụng HCQ, tại thời điểm EKG, từ hệ thống hồ sơ y tế điện tử. “Đối với nhóm RA, EKG thu được tại thời điểm chụp hình ảnh tim mạch, và việc sử dụng HCQ được đánh giá tại thời điểm EKG.”
Các nhà điều tra nhận thấy rằng trong toàn bộ nghiên cứu đoàn hệ, độ dài QTc đã điều chỉnh ở những người sử dụng HCQ tương đương với những người không sử dụng HCQ; với mô hình logistic đa thức chứng minh rằng việc sử dụng HCQ không phải là yếu tố dự báo có ý nghĩa về QTc kéo dài> 440 hoặc> 500ms (OR, 0,89; KTC 95%, 0,25-3,2 và OR, 0,11; KTC 95%, 0,007-1,7, tương ứng). HCQ cũng không được tìm thấy là một yếu tố dự báo kéo dài trong cả hai nhóm đoàn hệ riêng biệt RA của SLE.
Mặc dù 9 trong số 11 bệnh nhân SLE có QTc> 500 đang trong điều trị với HCQ, đây vẫn là con số quá nhỏ để phát hiện sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm HCQ. Các nhà điều tra lưu ý rằng không có rối loạn nhịp tim hoặc tử vong liên quan đến QTc> 500ms.
Không có tương tác đáng kể giữa việc sử dụng HCQ và các thuốc gây kéo dài QTc khác trong toàn bộ nghiên cứu đoàn hệ, nhưng có sự tương tác đáng kể (P = 0,014) giữa việc sử dụng HCQ và việc sử dụng thuốc chống loạn thần trong nhóm SLE, với QTc dài hơn ở những người dùng cả hai loại thuốc hơn những người chỉ dùng HCQ.
“Mặc dù chúng tôi không tìm thấy sự tương tác thống kê giữa việc sử dụng HCQ và các loại thuốc gây kéo dài QTc khác, nhưng có một số điều chúng tôi không đưa vào phân tích có thể thay đổi kết luận/giải thích”, Park nhận xét. “Điều đó bao gồm thời gian điều trị HCQ, liều lượng và nồng độ HCQ, và tuân thủ HCQ – tất cả đều có thể ảnh hưởng đến sự phơi nhiễm tích lũy với HCQ. Ngoài ra, thời gian, liều lượng và sự tuân thủ với mỗi loại thuốc gây kéo dài QTc cũng không được đánh giá.”
Park thừa nhận rằng việc loại trừ những bệnh nhân có triệu chứng của bệnh tim mạch khỏi nghiên cứu đã ngăn cản việc ngoại suy các phát hiện cho dân số đó, nhưng cho biết nhóm của cô đang lên kế hoạch nghiên cứu thêm để tìm ra sự an toàn của HCQ trong nhóm nguy cơ cao đó.
Park khuyến cáo: “Điều đó nói lên rằng, người ta có thể đưa ra trường hợp cho những người có bất thường hệ dẫn truyền tim – hoặc có các yếu tố nguy cơ cao khác đối với kéo dài QTc, hoặc sử dụng các thuốc gây kéo dài QTc khác không thể ngừng/giảm liều, người cao tuổi… phải thận trọng với liều lượng HCQ cao hơn các hướng dẫn được khuyến nghị và xem xét theo dõi điện tâm đồ.”
Nghiên cứu “Việc sử dụng hydroxychloroquine không liên quan đến độ dài QTc trong một thuần tập lớn bệnh nhân SLE và RA,” đã được trình bày tại ACR 2020.