Theo kết quả nghiên cứu được công bố gần đây trên tạp chí The Lancet Child & Adolescent Health, các chất ức chế calcineurin tại chỗ để điều trị viêm da cơ địa (AD) không làm tăng nguy cơ ung thư. Pimecrolimus và tacrolimus là 2 chất ức chế calcineurin không làm tăng nguy cơ ung thư dựa trên những bằng chứng y học ở mức độ trung bình từ tổng quan tài liệu có hệ thống và phân tích tổng hợp.
Viêm da cơ địa (AD) là một tình trạng viêm da dị ứng tái phát, mạn tính phổ biến ở cả trẻ em và người lớn. Thông thường corticosteroid tại chỗ đóng vai trò là liệu pháp chống viêm đầu tay cho bệnh này, nhưng bằng chứng cho thấy các tác dụng phụ xảy ra đáng kể khi người bệnh sử dụng lâu dài.
Ngoài kem làm mềm và dịu da, pimecrolimus và tacrolimus đã được khuyến cáo để ổn định AD lâu dài ngay cả khi điều trị chống viêm tại chỗ và hoặc toàn thân. Tuy nhiên các nhà nghiên cứu vẫn còn lưu ý về tính an toàn khi sử dụng ức chế calcineurin tại chỗ là liệu nó có liên quan đến ung thư hay không.
Theo Học viện Dị ứng, Hen suyễn và Miễn dịch học Hoa Kỳ các tác giả nghiên cứu đã tiến hành đánh giá tổng quan và phân tích tổng hợp để kiểm tra nguy cơ ung thư ở bệnh nhân AD khi tiếp xúc với pimecrolimus hoặc tacrolimus.
Dữ liệu được lấy từ MEDLINE, Embase, Viện khoa học Sức khỏe Mỹ Latinh và Caribê , cơ sở dữ liệu Índice Bibliográfico Espanhol de Ciências da Saúde, cơ sở dữ liệu thử nghiệm Tài nguyên Toàn cầu về bệnh chàm, trung tâm thử nghiệm Lâm sàng Quốc tế của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), cơ sở dữ liệu của FDA, cơ sở dữ liệu của Cơ quan Dược phẩm Châu Âu. Các dữ liệu từ các trích dẫn có liên quan từ khi thành lập đến ngày 6 tháng 6 năm 2022.
Phân tích bao gồm các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng và các nghiên cứu so sánh không đối chứng, không ngẫu nhiên đề cập đến nguy cơ ung thư ở bệnh nhân AD khi sử dụng thuốc ức chế calcineurin tại chỗ. Phương pháp Bayesian models được sử dụng để ước tính xác suất ung thư do tiếp xúc với chất ức chế calcineurin tại chỗ và GRADE được sử dụng để xác định mức độ chắc chắn của bằng chứng.
Tổng cộng có 110 nghiên cứu riêng biệt (52 thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng và 69 nghiên cứu không ngẫu nhiên được đưa vào phân tích, bao gồm 3,4 triệu bệnh nhân được theo dõi trong thời gian trung bình là 11 tháng (khoảng 0,7 -120 tháng).
Các phát hiện dựa trên mức độ tin cậy vừa trong phân tích tổng hợp, cho thấy nguy cơ ung thư khi tiếp xúc với chất ức chế calcineurin tại chỗ không khác biệt so với nhóm chứng (nguy cơ tuyệt đối, 4,70 trên 1000 khi sử dụng thuốc ức chế calcineurin tại chỗ so với 4,56 trên 1000 khi không sử dụng; tỷ suất chênh [OR ], 1,03; KTC 95%, 0,94 – 1,11).
Ngoài ra, các dữ liệu từ nghiên cứu quan sát và thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng, sử dụng pimecrolimus (OR, 1,05; 95% CI, 0,94-1,15) hoặc tacrolimus (OR, 0,99; 95% CI, 0,89-1,09) cho thấy ít hoặc không có mối liên hệ nào với ung thư cho tất cả các nhóm tuổi so với không tiếp xúc với chất ức chế calcineurin tại chỗ.
Giữa 2 chất ức chế calcineurin tại chỗ (pimecrolimus so với tacrolimus), mối liên hệ với ung thư là tương tự nhau (OR, 0,95; 95% CI, 0,83-1,07). Các phát hiện cũng được chỉ ra là tương tự ở trẻ sơ sinh, trẻ em và người lớn.
Tài liệu tham khảo: https://www.ajmc.com/view/topical-calcineurin-inhibitors-for-ad-not-associated-with-cancer