Không khí xung quanh bệnh nhân SARS-CoV-2 thường xuyên bị nhiễm virus, nhưng hiếm khi có virus sống sót. Các nhà điều tra cho biết virus cần có những điều kiện cụ thể để lây truyền qua đường không khí và nhờ sự hỗ trợ hiệu quả của khẩu trang làm giảm sự lây lan trong hầu hết các trường hợp.
Đó là kết quả từ một đánh giá về không khí bị nhiễm coronavirus 2 (SARS-CoV-2) gây hội chứng hô hấp cấp tính. Theo đó, mặc dù các mẫu được lấy ở cả gần và xa những bệnh nhân nhập viện đều chứa các vật liệu di truyền RNA của SARS-CoV-2, nhưng tải lượng virus lại rất thấp.
Kết quả được công bố trên JAMA Network Open chỉ ra rằng có lượng virus cao xuất hiện ở các khu vực như phòng tắm, khu vực nhân viên và hành lang.
893 mẫu đã được lấy để tiến hành 24 nghiên cứu cắt ngang. Trong số các mẫu này, 471 (52,7%) ở môi trường gần bệnh nhân, 237 (26,5%) ở khu vực lâm sàng, 122 (13,7%) ở khu vực nhân viên, 42 (4,7%) ở khu vực công cộng và 21 (2,4%) trong phòng tắm. Ở khu vực gần bệnh nhân, 82 mẫu (17,4%) dương tính.
Dữ liệu không cho thấy bất kỳ sự khác biệt nào về kết quả tùy thuộc theo khoảng cách với bệnh nhân mà mẫu được thu thập (≤1 m so với> 1-5 m; P = .22). Nhưng có sự khác biệt đáng kể giữa các mẫu dương tính từ phòng chăm sóc đặc biệt (ICU) so với khoa phòng không có ICU (25,2% so với 10,7%; P <0,001).
Trong các phòng áp suất âm, tỷ lệ dương tính là 47/360 (13,1%) và trong các phòng có không khí tự nhiên hoặc thông gió cơ học, tỷ lệ dương tính là 6/66 (9,1%). Trong số 21 mẫu từ phòng tắm, 5 mẫu (23,8%) dương tính.
Tỷ lệ dương tính chung trong các khu vực lâm sàng là 8,4% (20 trên 237), thay đổi từ 0/64 ở phòng khám đến 6/22 tại trạm y tế (P <0,001).
Đối với khu vực nhân viên, 5 trong số 122 (12,3%) mẫu là dương tính, thay đổi từ 5/26 ở phòng họp nhân viên, 2/51 ở phòng thay đồ và 8/45 ở các loại phòng nhân viên khác (P = 0,06).
Tổng cộng, 14 trong số 42 mẫu (33,3%) ở các khu vực công cộng là dương tính, thay đổi từ 9 trong số 16 mẫu ở hành lang, 2 trong số 18 mẫu ở các khu vực trong nhà khác và 3 trong số 8 mẫu ở các khu vực công cộng ngoài trời (P = 0,01).
Nhìn chung, 81 mẫu cấy virus đã được thực hiện trong 3 nghiên cứu. Trong số này, 13 (16,0%) đến từ các khu vực khám bệnh, 4 (4,9%) từ các khu vực nhân viên và 15 (18,5%) từ các khu vực công cộng.
Trong các nghiên cứu định lượng thực hiện phản ứng tổng hợp chuỗi polymerase phiên mã ngược, nồng độ RNA trung bình thay đổi từ 1,0 x 103 copies/m3 (phạm vi liên phân vị [IQR], 0,4 – 3,1 x 103 copies/m3) trong các khu vực lâm sàng đến 9,7 x 103 copies/m3 (IQR, 5,1 -14,3 x 103 copies / m3) trong phòng tắm.
Phòng bệnh nhân và phòng thay đồ bảo hộ có nồng độ SARS-CoV-2 cao. Trong 2 phòng bệnh, kết quả cho thấy nồng độ RNA là 2,0 x 103 copies/m3 đối với các hạt lớn hơn 4μm và 1,3 x
103 copies/m3 đối với các hạt có kích thước từ 1 đến 4μm.
Các tác giả nghiên cứu cũng tìm thấy 927 và 916 copies/m3 của các kích thước đó trong mỗi phòng tương ứng. Trong 2 phòng thay đồ bảo hộ, nồng độ dao động giữa 12,0 x 103 và 40,0 x 103 copies/m3 đối với các hạt nhỏ hơn 1μm và 2,0 x 103 đến 8,0 x 103 copies/m3 đối với các hạt có kích thước từ 1 đến 4μm.
Trong nghiên cứu, bối cảnh như vị trí, sự thông khí, khoảng cách và bối cảnh lâm sàng thường không được chi tiết và việc phân loại sai các biến mà không có đầy đủ chi tiết có thể đã xảy ra.
Việc đánh giá cũng bị hạn chế bởi sự thay đổi các phương pháp lấy mẫu và vi sinh trong các nghiên cứu. Sự nhiễm virus trên bề mặt đồ vật không được đưa vào phân tích và một số nghiên cứu không được đồng cấp đánh giá xác nhận.
Các nhà điều tra kết luận rằng mặc dù không khí xung quanh bệnh nhân SARS-CoV-2 thường xuyên bị nhiễm virus, nhưng hiếm khi có virus sống sót.
Các nhà điều tra cho biết virus cần có những điều kiện cụ thể để lây truyền qua đường không khí và nhờ sự hỗ trợ hiệu quả của khẩu trang làm giảm sự lây lan trong hầu hết các trường hợp.
Họ cũng nhấn mạnh rằng lượng virus cao cần chú ý ở một số khu vực, chẳng hạn như phòng tắm, khu vực nhân viên và hành lang công cộng.