Theo một nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Dị ứng và Miễn dịch lâm sàng(The Journal of Allergy and Clinical Immunology), bệnh nhân bị viêm da dị ứng, đặc biệt là những người bị các dạng bệnh nặng hơn, có nguy cơ mắc nhiều bệnh tự miễn hơn.
Các bác sĩ nên lưu ý về tỷ lệ hiện mắc khi chẩn đoán và tỷ lệ mắc các tình trạng tự miễn dịch sau đó cao hơn ở những bệnh nhân này, Simon de Lusignan MD, bác sĩ đa khoa cấp cao của Khoa Khoa học Sức khỏe Chăm sóc Ban đầu Nuffield tại Đại học Oxford, và các đồng nghiệp đã viết.
Các nhà nghiên cứu đã kiểm tra 173.709 trường hợp viêm da dị ứng (VDDƯ) và 694.836 trường hợp nhóm chứng trong trong cơ sở dữ liệu của Oxford-Royal College of General Practitioners Research and Surveillance Centre primary care từ năm 2009 đến năm 2018.
Với chẩn đoán VDDƯ, 5,84% bệnh nhân có tình trạng tự miễn (KTC 95%, 5,73-5,95) so với 4,31% bệnh nhân nhóm chứng (KTC 95%, 4,26-4,36; P <0,001).
Ngoài ra, 3,9% bệnh nhân không có tình trạng tự miễn từ trước đã phát triển bệnh tự miễn sau đó trong 10 năm tiếp theo (theo dõi trung bình, 4,1 năm; KTC 95%, 3,6-4,2), so với 2,7% các trường hợp chứng (KTC 95%, 2,6-2,9).
Các nhà nghiên cứu cũng tìm thấy mối liên quan giữa VDDƯ và sự khởi phát mới của bất kỳ tình trạng tự miễn nào (HR điều chỉnh = 1,28; KTC 95%, 1,23-1,34; P <0,001) cũng như giữa VDDƯ và bệnh Crohn, viêm loét đại tràng, thiếu máu ác tính, tự miễn dịch suy giáp, viêm khớp dạng thấp, viêm khớp vảy nến, hội chứng Sjögren, bạch biến và rụng tóc từng vùng (phạm vi aHR, 1,17-2,06).
Trong thời gian nghiên cứu, 17.623 trường hợp tiến triển thành VDDƯ trung bình, và 13.121 trường hợp tiến triển thành VDDƯ nặng hơn. Các nhà nghiên cứu còn phát hiện ra mối liên quan giữa việc gia tăng mức độ nghiêm trọng của AD và nguy cơ mắc bệnh tự miễn cao hơn.
Đối với VDDƯ nhẹ, aHR là 1,22 (KTC 95%, 1,16-1,28; P <0,001) so với nhóm chứng. Đối với VDDƯ vừa phải, đó là 1,33 (KTC 95%, 1,19-1,49; P <0,001). Đối với VDDƯ nặng hơn, đó là 1,99 (KTC 95%, 1,77-2,23; P <0,001).
Nguy cơ cao hơn đối với các bệnh tự miễn ở bệnh nhân VDDƯ so với nhóm chứng là sự thích hợp giữa các nhóm theo giới tính, hoàn cảnh, dân tộc và tuổi tác (phạm vi aHR, 1,12-1,78; tất cả P <0,01).
Trẻ em chỉ có nguy cơ mắc bệnh tự miễn cao hơn khi có VDDƯ nặng hơn (aHR = 2,41; KTC 95%, 1,88-3,07), VDDƯ vừa (aHR = 1,23; KTC 95%, 0,88-3,07) và VDDƯ nhẹ (aHR = 1,03; KTC 95%, 0,93-1,15).
Ngoài ra, các nhà nghiên cứu chỉ quan sát thấy mối liên quan thuận giữa VDDƯ và bệnh bạch biến (aHR = 1,70; 95% CI, 1,38-2,11) và rụng tóc từng vùng (aHR = 1,33; 95% CI, 1,07-1,64) ở trẻ em.
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu cho biết, những người bị VDDƯ phải đối mặt với tỷ lệ lưu hành và tỷ lệ mắc các bệnh tự miễn dịch cao hơn so với dân số chung, trong khi những người bị VDDƯ nặng hơn có gấp đôi nguy cơ mắc bệnh tự miễn mới khởi phát so với nhóm chứng phù hợp.
Các nhà nghiên cứu cho biết, những phát hiện này nhấn mạnh sự cần thiết của các bác sĩ để nhận thức về các bệnh đi kèm tự miễn dịch ở bệnh nhân VDDƯ, cũng như sự cần thiết của sự hướng dẫn của chuyên gia trong các khuyến nghị sàng lọc trong thực hành lâm sàng.
Nguồn: De Lusignan, et al. J Allergy Clin Immunol.2022; doi:10.1016/j.jaci.