Theo những phát hiện mới, nồng độ globulin miễn dịch E (IgE) tăng cao và tiền sử bệnh dị ứng có thể dự đoán tỷ lệ mắc bệnh viêm da dị ứng (ALD) đối với những người mắc bệnh vảy nến sử dụng chất ức chế IL-17A, cho thấy nhu cầu tổng thể về xác định nguy cơ.
Kết quả của nghiên cứu này chứng minh sự cần thiết của việc xác định yếu tố rủi ro đối với bệnh viêm da dị ứng, cũng như tầm quan trọng của việc khám phá các phương pháp điều trị thay thế cho các trường hợp nghiêm trọng.
Những phát hiện này đến từ một nghiên cứu gần đây được thực hiện để đánh giá các yếu tố rủi ro, tỷ lệ mắc bệnh, kết quả và điều trị tình trạng được gọi là ALD ở những người mắc bệnh vảy nến và được điều trị bằng chất ức chế IL-17A.
Dữ liệu gần đây chỉ ra các yếu tố môi trường và yếu tố miễn dịch góp phần phát triển ALD, nhưng nghiên cứu về các yếu tố nguy cơ gây ra ALD nhờ các chất ức chế IL-17A còn hạn chế.
Cho đến nay, có rất ít thông tin về việc quản lý ALD do thuốc gây ra, nghiên cứu này được thực hiện bởi nhóm và nó được tác giả bởi Kun Huang, MD, Tiến sĩ, từ Khoa Da liễu tại Bệnh viện Liên kết Đầu tiên của Trùng Khánh Đại học Y khoa ở Trung Quốc.
“ALD có thể phát triển do sử dụng chất ức chế IL-17A, điều này thường có thể dẫn đến chẩn đoán sai và quản lý kém,” Huang và các đồng nghiệp viết. “Vì vậy, nghiên cứu này nhằm mục đích ước tính tần suất ALD do chất ức chế IL-17A gây ra và khám phá các mối tương quan lâm sàng, các yếu tố rủi ro và phương pháp điều trị của nó trong một đoàn hệ bệnh vảy nến.”
Cơ sở và kết quả nghiên cứu
Các nhà điều tra đã sử dụng một thiết kế nghiên cứu hồi cứu và bao gồm những người tham gia vừa bị bệnh vảy nến vừa bị hoặc không bị viêm khớp vảy nến. Ngoài ra, những người tham gia này đã phát triển ALD tại thời điểm họ điều trị bằng thuốc ức chế IL-17A tại Bệnh viện liên kết đầu tiên của Đại học Y Trùng Khánh ở Trung Quốc, cụ thể là trong khoảng thời gian từ tháng 7 năm 2020 – tháng 7 năm 2022.
Họ đã sử dụng mức độ nghiêm trọng của bệnh vảy nến của những người tham gia tại thời điểm khởi phát bệnh ALD, diện tích bề mặt cơ thể (BSA), diện tích bệnh vảy nến và chỉ số mức độ nghiêm trọng (PASI) và chỉ số chất lượng cuộc sống da liễu (DLQI), ngoài tiền sử cá nhân và gia đình của bệnh dị ứng.
Nhóm nghiên cứu cũng thu thập dữ liệu về các yếu tố như giới tính, tuổi tác, loại chất ức chế IL-17A, thời gian sử dụng chất ức chế IL-17A tính theo tuần, chỉ số khối cơ thể (BMI), sự tồn tại của ALD đối với người tham gia, mức độ nghiêm trọng của viêm da dị ứng dựa trên khu vực bị chàm và chỉ số mức độ nghiêm trọng (EASI), chỉ số viêm da dị ứng (SCORAD) và trên thang đánh giá số (NRS).
Nhóm nghiên cứu cũng thu thập những thông tin như chỉ số phòng thí nghiệm — mức độ IgE trong huyết thanh và mức độ bạch cầu ái toan—và dữ liệu về tác động của môi trường đối với bệnh tật—tiền sử sở hữu vật nuôi, thói quen hút thuốc và tiền sử dị ứng thuốc.
Các tổn thương ALD được các nhà điều tra đặc trưng là biểu hiện điển hình, với các đặc điểm bao gồm các mảng lichen hóa và trầy xước, sẩn, ban đỏ và xuất hiện chủ yếu ở các vùng uốn. Một đánh giá đồng thuận đã được thực hiện bởi 3 bác sĩ da liễu cho tất cả những người tham gia mắc ALD, với phương pháp soi da được nhóm sử dụng khi cần thiết.
Nhóm nghiên cứu đã xác định điểm Naranjo ≥ 4 gợi ý mối liên hệ giữa ALD và chất ức chế IL-17A. Bất cứ nơi nào có thể, phạm vi và sự phân bố của ALD, bên cạnh các biện pháp can thiệp về da liễu, đều được đánh giá. Các quy trình và kết quả điều trị ALD đã được nhóm ghi lại và những quy trình và kết quả không được theo dõi trong khoảng thời gian 2 năm đã bị loại khỏi phân tích của họ.
Nhìn chung, các nhà điều tra nhận thấy rằng trong số 226 bệnh nhân được phân tích, 14 người được chứng minh là đã mắc ALD. Kết quả của nhóm cho thấy tiền sử cá nhân mắc bệnh dị ứng (tỷ lệ chênh lệch [OR] 27,830, khoảng tin cậy 95% [CI] 3,801 – 203,770; P = 0,001) cũng như mức độ IgE tăng cao (OR 5,867, 95% CI 1,131 – 30,434 ; P = 0,035) được coi là yếu tố dự đoán độc lập về sự cố ALD.
Trong một trường hợp duy nhất, các nhà điều tra đã báo cáo rằng liệu pháp kháng IL-17A đã bị ngưng và sau đó được thay thế bằng tofacitinib. Trong số 13 người tham gia tiếp tục sử dụng phương pháp điều trị bằng chất ức chế IL-17A, ALD đã được chứng minh là đã được giải quyết phần nào hoặc hoàn toàn nhờ liệu pháp bôi ngoài da và/hoặc thuốc kháng histamine.
Họ đã viết: “Những phát hiện trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tiền sử cá nhân mắc bệnh dị ứng và mức độ IgE tăng cao là những yếu tố rủi ro đối với ALD do chất ức chế IL-17A gây ra. “Sau khi ALD phát triển, điều quan trọng là phải cân bằng giữa rủi ro và lợi ích của việc tiếp tục dùng thuốc ban đầu. Các chiến lược cá nhân hóa được khuyến nghị tùy theo mức độ nghiêm trọng của ALD và bệnh vảy nến, và việc đánh giá thận trọng về ảnh hưởng của tổn thương da đối với chất lượng cuộc sống là rất quan trọng.”
Nguồn: https://www.hcplive.com/view/elevated-ige-atopic-disease-shown-help-predict-atopic-like-dermatitis-in-psoriasis-patients-using-il-17a-inhibitors