Các nhà nghiên cứu đã báo cáo trong một bài đăng trên tạp chí Liệu pháp Da liễu rằng hiệu quả và tính an toàn của các thuốc kháng nấm tại chỗ trong điều trị bệnh nhân viêm da cơ địa chưa thể được đánh giá chính xác vì cần có các nghiên cứu thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên (RCTs) cỡ lớn và chất lượng cao.
Phân tích meta tìm cách để đánh giá tính an toàn và hiệu quả của các thuốc kháng nấm tại chỗ đối với viêm da cơ địa và cung cấp các bằng chứng đáng tin cậy cho thực hành lâm sàng. Các nhà điều tra đã tiến hành tìm kiếm nhiều cơ sở dữ liệu để tìm các nghiên cứu có liên quan được xuất bản bằng tiếng Trung hoặc tiếng Anh trước 27 tháng 5 năm 2021.
Tổng cộng 9 RCTs với 785 bệnh nhân, 4 bài báo cáo tiếng Trung và 5 báo cáo tiếng Anh. Các nghiên cứu được chia thành 3 nhóm: thuốc kháng nấm tại chỗ so với giả dược, thuốc kháng nấm tại chỗ so với glucocorticoids tại chỗ so với glucocorticoids tại chỗ.
Đối với thuốc kháng nấm tại chỗ so với giả dược, một trong hai nghiên cứu cho thấy sertaconazole 2% có liên quan tới việc giảm rõ rệt chỉ số điểm viêm da cơ địa (SCORAD) ở bệnh nhân viêm da cơ địa nhẹ đến trung bình hơn so với giả dược, mặc dù sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (khác biệt trung bình = -3,70: CI95% từ -9,65 đến 2.25; p>0,05).
Một nghiên cứu khác được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu cho thấy sự khác biệt về điểm IGA (Investigator Global Assessment) giữa các thuốc kháng nấm tại chỗ và nhóm giả dược có ý nghĩa thống kê sau khi điều trị bằng kem ciclopirox 1% (p=0,04). Dựa trên một nghiên cứu, không quan sát thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về phản ứng bất lợi giữa hai nhóm điều trị.
Về thuốc kháng nấm tại chỗ so với glucocorticoids tại chỗ, bốn nghiên cứu trong nhóm này đã chứng minh rằng tỷ lệ hiệu quả của thuốc chống nấm tại chỗ cao hơn đáng kể so với glucocorticoids tại chỗ (RR=1,39; CI 95% từ 1,12 đến 1,72; Z=3,01; p=0,003).
Dựa trên 1 nghiên cứu, chỉ số SCORAD và Eczema Area and Severity Index (EASI) sau điều trị có sự khác biệt đáng kể giữa nhóm thực nghiệm và đối chứng (đối với chỉ số SCORAD: khác biệt trung bình=-3,2; CI95% từ -4,33 đến -2,07; p<0,001; với EASI: khác biệt trung bình = -1,60; CI95% từ -2,26 đến -0,94; p<0,001). Trong hai nghiên cứu báo cáo các phản ứng bất lợi, không quan sát thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
Đối với thuốc kháng nấm tại chỗ cộng với glucocorticoids tại chỗ so với glucocorticoids tại chỗ, hai trong ba nghiên cứu đã báo cáo tỷ lệ hiệu quả. Tỷ lệ hiệu quả kết hợp của thuốc kháng nấm tại chỗ cộng với glucocorticoids tại chỗ cao hơn so với so với glucocorticoids tại chỗ và sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (RR=1,18; CI95% từ 1,07 đến 1,30; Z=3,25; p=0,001).
Trong một nghiên cứu, những người tham gia được điều trị bằng kem hydrocortisone 1% cộng với kem miconazole và dầu gội ketoconazole hoặc bằng kem hydrocortisone 1%.
Đối với nhóm thực nghiệm và đối chứng chỉ số SCORAD sau điều trị thấp hơn so với trước điều trị (p<0,001) mặc dù sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm. Kết quả tổng hợp của ba nghiên cứu cho thấy sự khác biệt về phản ứng bất lợi không có ý nghĩa thống kê (RR=2,04; CI95% từ 0,53 đến 7,86; p>0,05).