Theo kết quả nghiên cứu đăng trên Journal of the European Academy of Dermatology and Venereology, kết hợp baricitinib và corticosteroid tại chỗ cho hiệu quả lâu dài có ý nghĩa lâm sàng trong điều trị bệnh nhân trưởng thành mắc viêm da cơ địa từ trung bình đến nặng.
Để kiểm soát viêm da cơ địa ở những bệnh nhân không đáp ứng với các liệu pháp điều trị tại chỗ thông thường, khuyến cáo bổ sung liệu pháp toàn thân và/hoặc liệu pháp quang trị liệu kết hợp với bôi corticosteroid tại chỗ.
Các tác giả nghiên cứu viết: “Do hiệu quả hạn chế và nguy cơ rủi ro liên quan đến các liệu pháp toàn thân, rõ ràng cần có các lựa chọn điều trị thay thế khác”.
Baricitinib, một chất ức chế chọn lọc JAK1/JAK2 qua đường uống, đã chứng minh được sự cải thiện đáng kể viêm da cơ địa sau 16 tuần điều trị dưới dạng đơn trị liệu (BREEZE-AD1 và BREEZE-AD2) và khi kết hợp với corticosteroid tại chỗ (BREEZE-AD7).
Để kiểm tra hiệu quả lâu dài của baricitinib kết hợp với corticosteroid tại chỗ, những bệnh nhân đã hoàn thành nghiên cứu BREEZE-AD7 tiếp tục tham gia vào nghiên cứu BREEZE- AD3 (NCT03334435) kéo dài thêm 52 tuần (tổng 68 tuần điều trị).
Sau khi hoàn thành BREEZE-AD7, bệnh nhân được phân làm 3 loại là: (1) có đáp ứng, được định nghĩa là những người đạt điểm 0 hoặc 1 đối với thang điểm vIGA-AD (Validated Investigator Global Assessment scale for Atopic Dermatitis) và không phải sử dụng liệu pháp điều trị khác trong nghiên cứu ban đầu, (2) đáp ứng một phần với điểm vIGA-AD là 2 và không phải sử dụng liệu pháp điều trị khác trong nghiên cứu ban đầu, (3) không đáp ứng với điểm vIGA-AD là 3 hoặc 4 hoặc phải sử dụng liệu pháp điều trị khác thay thế trong nghiên cứu ban đầu.
Những người đáp ứng hoặc đáp ứng một phần baricitinib 2 mg hoặc 4 mg cộng với corticosteroid tại chỗ duy trì liều điều trị ban đầu của họ trong BREEZE-AD3. Những người không đáp ứng baricitinib 2 mg được sắp xếp ngẫu nhiên 1:1 với baricitinib 2 mg hoặc 4 mg, những người không đáp ứng với baricitinib 4 mg vẫn dùng liều như cũ.
Dữ liệu tích hợp từ tất cả các bệnh nhân dùng liên tục baricitinib 4 mg trong BREEZE-AD7 đến BREEZE-AD3 đã được phân tích, cùng với nhóm đáp ứng và đáp ứng một phần dùng baricitinib 4 mg (n = 63) hoặc 2 mg (n = 53).
Điểm cuối được đánh giá là tỷ lệ bệnh nhân có điểm vIGA-AD là 0 hoặc 1 ở tuần 16, 36 và 52 (tuần 32, 52 và 68 của BREEZE-AD7).
Hiệu quả được đánh giá bằng tỷ lệ bệnh nhân đạt được EASI75 và thang điểm đánh giá mức độ ngứa NRS (Itch Numeric Rating Scale) cải thiện từ 4 điểm trở lên so với ban đầu (đến tuần 32).
Kết quả ở các nhóm nhận baricitinib 4 mg cho thấy tỷ lệ bệnh nhân đạt được vIGA-AD ở tuần 32, tuần 52 và tuần 68 lần lượt là 21,6%, 26,5% và 23,5% và những người đạt được EASI75 lần lượt là 46,1%, 40,2% và 43,1%. Cải thiện từ 4 điểm trở lên trong thang điểm NRS được quan sát thấy ở 47,3% bệnh nhân ở tuần 16 và 40,6% ở tuần 32.
Đối với nhóm đáp ứng/đáp ứng một phần với baricitinib 4 mg, tỷ lệ bệnh nhân đạt được vIGA-AD ở tuần 32, tuần 52 và tuần 68 lần lượt là 31,7%, 33,3% và 34,9% và EASI75 là lần lượt là 57,1%, 49,2% và 49,2%. Sự cải thiện điểm NRS từ 4 điểm trở lên được quan sát thấy ở 53,6% người tham gia ở tuần 16 và 46,4% ở tuần 32.
Hơn nữa, tỷ lệ tương ứng đối với nhóm đáp ứng/đáp ứng một phần với baricitinib 2 mg đạt vIGA-AD ở tuần 32, tuần 52 và tuần 68 lần lượt là 39,6%, 45,3% và 30,2% và EASI75 là 77,4%, lần lượt là 69,8% và 58,5%. Sự cải thiện điểm NRS từ 4 điểm trở lên được ghi nhận ở 56,3% bệnh nhân ở tuần 16 và 47,9% ở tuần 32.
Các nhà nghiên cứu lưu ý một số hạn chế của nghiên cứu, bao gồm số lượng bệnh nhân tương đối nhỏ so với các nghiên cứu đơn trị liệu, không có kết quả báo cáo của bệnh nhân được thu thập sau tuần 32 của BREEZE-AD7 và không có đánh giá dữ liệu dài hạn cho nhóm giả dược do giảm kích cỡ mẫu.
Các nhà nghiên cứu kết luận rằng bổ sung điều trị với baricitinib có thể là một lựa chọn điều trị lâu dài cho bệnh nhân viêm da cơ địa từ trung bình đến nặng.
Nguồn: